Hôm nay,  

Trường lớp, thầy trò, ngày xưa

29/10/202308:03:00(Xem: 2682)
Tùy bút

Trang vở cũ_HTT

Trang vở cũ – Tranh Hoàng Thanh Tâm.


 

Tôi nhận được điện thư với tựa đề: Quang Ngai –  IVS (International Voluntary Services) English School –  Trường ông Dave. Tôi rất ngạc nhiên, nhưng thật vui. Tên người gởi là Nguyễn Văn Kông. Tôi nhớ ngay đến thầy giáo Kông của IVS Quảng Ngãi. Mở thư đính kèm, thấy mình được hân hạnh trong vài chục người đầu tiên trong danh sách, cùng với em tôi. Tôi vội vàng chuyển thư đến anh chị của tôi, những người cũng một thời học trò “trường ông Dave”.
    Tôi ngỡ như mình đang nhẩn nha xem cuốn phim đen trắng, ghi lại ngày tháng cách đây hơn ba thập niên.
    Tôi kết thúc chương trình tiểu học với phần thưởng ưu hạng, tức là hạng nhì của lớp 5B. Lên trung học, tôi đinh ninh mình sẽ tiếp tục làm quà cho Ba Mạ với những bảng danh dự xanh đỏ. Nhưng, khi nhìn kết quả đệ nhất lục cá nguyệt của mình trong năm đầu tiên ở trung học, tôi buồn và thất vọng não nề. Mặc cho các môn toán, lý hóa có điểm khá, điểm thấp trong môn Anh Văn đã đẩy tôi ra khỏi top ten của lớp Sáu Bốn, Nữ Trung Học. Trong chương trình “cứu nguy”, anh tôi lãnh trọng trách dẫn tôi đến ghi danh ở “trường ông Đê”. Lúc đó, thầy Đặng Quỳ là hiệu trưởng của trường.
    Bây giờ, cũng lạ, tôi không hề nhớ đến một nam sinh nào trong lớp. Hình như lớp của tôi đa số là nữ sinh, lại là nữ sinh mỹ nhân. Bông hoa rực rỡ nhất lớp trong mắt tôi thuở ấy là chị KH. Chị có vẻ rất à-la-mốt, để tóc “xì tôn”. Cặp mắt to, đúng điệu mắt nai vàng ngơ ngác. Tôi không biết Tây Thi bên Tàu ngày xưa diễm lệ cỡ nào, mà làm cho “trầm ngư”, chớ chị KH ở IVS đã làm không biết bao nhiêu Quảng-Ngãi-công-tử “lạc nhạn”. Có lần, chàng nào từ Sài Gòn ra Quảng Ngãi, đem tặng chị trái táo. Có lẽ chị mắc cỡ, nên sẵn có nhãi ranh ngồi cạnh, bèn đưa cho nó luôn. Vậy là tôi được bổng lộc bất ngờ. Ngoài ra, có cô bắc kỳ nho nhỏ VTL cũng xinh xắn lắm. Nếu thời đó nhạc phẩm Tháng Sáu Trời Mưa đã ra đời, hẳn tôi đinh ninh nhạc sĩ đang ca tụng làn da của chị VTL,  Da em trắng anh chẳng cần ánh sáng... Chị nói chuyện nhỏ nhẹ, dễ thương. Tôi “mết” chị và bí mật chấm điểm cao cho chị, chờ cơ hội thuận tiện làm mai cho ông anh của tôi. Tiếc là, anh tôi lại nhờ tôi gò chép mấy câu thơ của Nguyên Sa,  Gặp một bữa anh đã mừng một bữa, Gặp hai hôm thành nhị hỉ tâm hồn, rồi sai tôi đi “dâng” cho nàng thơ khác ở tiệm vải Phúc Thịnh gần chợ Quảng Ngãi. Tan trường, khi rời khỏi con hẻm nhỏ, bên cạnh nhà may cô Yến, tôi có thể quẹo phải, về tiệm sách Kim Mai ở Phan Bội Châu, hoặc quẹo trái về nhà, Café Uyên, ngoài ngã tư chính. Nhớ chị XM, có lần trời chạng vạng, tôi đứng gần chị trước cửa lớp chờ vào học. Chị nói: “Con nhỏ Thúy có cặp mắt tình ghê.” Chị XM lúc đó học giỏi có tiếng. Được người “nổi tiếng” khen, làm con nhỏ lật đật ghim vào tâm khảm, nhớ miết tới bây giờ.
    Còn vài chuyện đáng nhớ nữa, nhưng chắc tại tôi hồi đó ưa “tôn thờ” mấy người lớn, nên cất kỹ trong đầu. Chớ mấy chị, chắc đâu ai còn vấn vương chi mấy chuyện lắt nhắt, lít nhít đó. Nói chung, trong lớp IVS đó, tôi không nhớ đến những bạn cùng trang lứa để mày tao, mà chỉ nhớ đến các chị.
    Thầy giáo chính của lớp chúng tôi là thầy Vương Đình Quý. Thầy Quý phát âm giọng mũi, nghe rất Mỹ. Tôi nói vậy cho oai, chứ tới thời của tôi, tôi không có dịp nghe giọng Mỹ. Vì các thầy giáo người Mỹ lúc đó đã thôi không dạy ở trường nữa. Tôi còn nhớ bài đọc về con hươu cao cổ của thầy Quý,  The giraffe has long, thin legs and a very, very long neck.  Chữ giraffe thầy Quý phát âm nghe sang chi lạ.
    Những giờ học với thầy Võ Thành Chương thật thoải mái. Thầy Chương rất hiền. Thầy chẳng rầy la ai bao giờ. Thầy nói rất nhỏ. Không chừng có thêm cái quạt mo, là thầy Chương có thể biểu diễn hoạt cảnh của nhạc phẩm Ngậm Ngùi, (các) em (học trò) ơi hãy ngủ, anh hầu quạt đây, ngủ đi, mộng vẫn bình thường... Mộng bình thường của tôi lúc đó là làm sao chống mắt cho kỹ, kẻo ngủ gục rồi không đọc theo tấm chart thầy Chương dạy, The musician is calm, the singers are talented...
    Vào mùa hè, thỉnh thoảng chúng tôi được các thầy “lão thành”, những anh lớn đã vào đại học ở Huế, Sài Gòn, ghé qua dạy. Tôi còn nhớ rõ ngữ điệu của bài đàm thoại khi vào tiệm ăn:
        – Are you ready to order?
        – Yes, I'd like steak, please.
        – How do you want it? Well-done, medium or rare?
        – I'd like it rare, please.
        – …
    Nói riết thành phản xạ. Cứ hễ vô nhà hàng là ăn steak, mà ăn steak là ăn sống... Thầy Phạm Công Hiệu đọc trước, cả lớp đọc theo. Vì lẽ gì đó, lớp chúng tôi không lặp lại liền ngay sau khi thầy đọc, mà chúng tôi nghỉ chừng vài giây. Thầy bảo: “Mấy em làm tôi đau tim quá.” Rồi thầy kể câu chuyện vui. Có cậu sinh viên ở trọ trên căn gác. Một cụ già ở tầng dưới. Cậu sinh viên có tật về đến nhà là cởi giày ra, vứt xuống gầm giường cái rầm, gây tiếng động, làm bà cụ giật mình. Bà đã đôi lần phàn nàn với cậu và yêu cầu để ý. Chiều đó, về đến phòng, cậu sinh viên quen tay, ném ào một chiếc giày. Xong, cậu chợt nhớ lời bà cụ, nên nhè nhẹ cởi chiếc thứ hai để xuống cạnh giường. 10 phút sau, có tiếng bà cụ gõ cửa, cậu sinh viên chắc mẩm bà lên khen cậu tiến bộ. Ai dè, bà cụ mặt mày xanh mét, thều thào: “Cậu này! Sao cậu không ném chiếc giày thứ hai cho rồi. Già chờ nãy giờ, hồi hộp quá, mệt cả tim.” Thầy Hiệu nói: “Đó! Mấy em thấy chưa! Mấy em đừng để tôi đau tim nghe”. Qua thầy Trần Văn Hải, tôi được biết những điều khái quát của thái dương hệ, giải ngân hà, được nghe đến những địa danh thật huyền bí, xa xôi. Có lẽ nhờ đôi giờ học hiếm hoi với các “cao nhân", mà mới đây, tôi đã giải đáp được câu đố mẹo (Thân mời quí Sư Huynh, and Sư Tỷ giải bài zăn sau đây:M V E M J S U N next alphabet (after N)???)
    Tính ra, tôi học với thầy Nguyễn Văn Kông nhiều giờ nhất. Thầy Kông cao, gầy, thư sinh bạch diện, nghiêm nghị lắm lắm. Thầy Kông đi dạy, hay mặc đồng phục của trường Trần Quốc Tuấn, áo trắng, quần xanh, rất chỉnh tề. Không biết sao, tôi lọt vào lớp rất nhiều chị lớn, nên tự nhiên thành hàng em út. Thuở đó, biết phận mình chưa nhổ giò, tôi đâu dám... trèo cao. Nên tôi đành lủi thủi nghe mấy chị “mộng ngoài cửa lớp”: Nào là thầy Kông học giỏi, nói tiếng Anh hay và nhất là mái tóc thầy Kông, bềnh bồng dợn sóng. Ấy, chẳng phải là hàng nhân tạo như mái tóc uốn ép sấy gội nhuộm của các kép Minh Vương, Minh Phụng đâu. Tóc thầy Kông nghe đâu được cầu chứng tại tòa là tóc “quen” tự nhiên. Nghe mấy chị rù rì với nhau, mấy chàng tóc quăn thương vợ lắm. Tôi chỉ nhớ được chừng đó thôi, nhưng tiếc không nhớ chị nào đã có lời bàn nào, để bây giờ “méc” lại với thầy Kông.
 
thaykong
                                 Thầy Kông –  Hình minh họa Nguyễn Đức Tuấn Đạt. 

Người xưa có dạy rằng, muốn... mình hay chữ phải... yêu kính thầy. Mấy chị dành “thầu” phần yêu. Còn tôi, hạng em út, vừa qua giai đoạn thò lò mũi xanh chưa lâu, phải “khoán” phần kính. Nếu thuở đó, Tom Cruise đã tiếng tăm ở Hồ Ly Vọng, trường phái Bút Tre đã lẫy lừng trên thi đàn, chắc mấy chị trong lớp đã ngâm nga:
   
    Thầy Kông thẩy rất nghiêm tràng (trang),
    Nhưng thầy đẹp trái (trai) ngang hàng Tôm Cui.
 
Mấy chị lại ưa màn “ghép đôi” thầy Kông với chị Liễu. Có lần, chị nào lén viết trên bảng Peacock + Willow. Thầy Kông vào lớp thấy vậy, mặt mày hầm hầm, vừa xóa bảng vừa “giũa te tua” đám học trò rắn mắt. Tôi, lúc đầu cũng thày lay, tính cười ké theo mấy chị. Đến khi thấy thầy nộ khí xung thiên, rét quá, im thin thít. Tôi nhớ, thầy Kông có dạy bài Phật Khóc rất hay. Trời lụt, một người đi đường nghe hai tượng Phật nói chuyện với nhau. Tượng Phật gỗ nói: “Tội nghiệp cho bạn quá! Bạn là đất, khi nước dâng lên, bạn sẽ vữa ra và tan biến mất. Tôi may mắn hơn bạn nhiều, tôi bằng gỗ, tôi sẽ nổi lên mặt nước và trôi đi tìm chỗ nào cao hơn, khô ráo.” Tượng Phật đất trả lời: “Không đâu bạn ạ, tôi mới là người may mắn. Tôi đến từ đất, tôi sẽ trở về đất. Còn bạn, bạn sẽ bị trôi dạt đến nơi đâu bạn chẳng rõ, biết đâu bạn mãi mãi tha hương không có ngày trở về...”
    Ngoài những bài học anh văn, tôi còn rất “ngưỡng mộ” chữ viết của thầy Kông. Thầy Kông viết chữ rất đẹp. Chữ f thầy kéo đường vòng. Trông từa tựa dáng con ve. Khi thầy viết chữ of, tôi nhìn, liên tưởng đến con ve đang cầm trái bong bóng. Hồi đó, tôi bắt chước thầy Kông cũng viết chữ f như vậy, mà không xin bản quyền. Chắc thầy Kông không kiện cáo gì, bắt tôi đáo tụng đình vì tội vi phạm copy right. Tiếc là thi ca tiếng Việt không có chữ f, hoặc rất hiếm, nếu có, chỉ là danh từ riêng, tên họ... cho nên tôi không có dịp “thư pháp” chữ f.
    Nói chung, lớp chúng tôi, hay đúng hơn là tôi, tình cờ có sự sắp xếp các thầy rất hợp lý cho tôi. Bởi, nếu, thầy nào cũng speak softly love như thầy Chương, tôi ngủ hoài trong lớp, làm sao về nhà còn ngủ được. Còn, nếu thầy nào cũng khó đăm đăm như thầy Kông, thì căng thẳng trường kỳ, e rối loạn hệ thần kinh não tủy.    
    Tôi hơi tiếc là trường IVS phải đóng cửa, lúc tôi vẫn chưa đủ tuổi để xao xuyến, bâng khuâng khi học các ông thầy đẹp trai, học giỏi... Sau năm 1975, tôi mất liên lạc với thầy bạn cùng lớp của trường ông Dave. Mãi đến năm 1979, tôi gặp lại chị KH trong khuôn viên Đại Học Sư Phạm Sài Gòn. Tôi là lính mới khoa Ngoại Ngữ. Chị là sĩ quan sắp ra trường khoa Hóa Sinh. Tôi thấy chị vẫn tươi thắm như xưa. Còn chị nhận xét: “Ủa! con Thúy, chớ mấy năm rồi mà sao mày hỏng lớn thêm chút nào vậy?” Vào trường IVS thời gian ngắn, tiếng Anh của tôi tiến bộ thấy rõ. Từ lớp bảy cho đến lớp chín Nữ Trung Học tôi lấy lại phong độ và chỉ quẩn quanh trong top five cho đến năm 1975.
    Sau này, khi vào học Marie Curie Sài Gòn, tiếng Anh của tôi vẫn không chịu thua “thằng tây” nào, bất kể là đầm thiệt hoặc đầm dỏm. Có thể, nhờ căn bản tiếng Anh ban đầu, tôi luôn thấy niềm vui và dễ dàng khi học thêm ngoại ngữ mới. Bây giờ, trong công việc làm, tôi đã có dịp nói tiếng Anh ở những địa danh không hẳn xa, nhưng đôi khi rất lạ như Tel Aviv, Vilnius, Almaty, Kiew, Abu Dhabi, Ljubljana... Khi tình cờ bấm nhầm nút điện thoại, nghe giọng đọc của mình trong máy, tôi không nín cười được. Trời đất! Nói tiếng Anh mà sao nghe như... hò Huế. Giọng đọc của tôi, dù với accent nước mắm, tôi vẫn luôn tự tin khi khi phát âm s, sh, th, z... Đó, chắc chắn có phần đóng góp dạy luyện giọng của các thầy qua các bài tập như She sees the seashell at the seashore, hoặc I know two boys...
    Mấy tháng nay, nhờ bầu nhiệt huyết và trái tim không ngủ yên của thầy Kông, những IVSer từ khắp năm châu bốn bể đã tìm gặp lại nhau sau nhiều thập niên thất lạc tin tức. Hội ngộ trên mạng, trên điện thoại, những họp mặt nho nhỏ, trung trung và đến hội ngộ lớn.
    Tôi bắt chước vài anh chị lớp lớn, xuất khẩu thành thơ... bút tre:  Brà-vô Ai-ví-Ét-Xờ/
Thầy Kông cồ-nét, mình giờ gặp nhau.
    Người xưa có dạy, nhất tự vị sư, bán tự vị sư. Mấy chục năm trước, tôi học các thầy bao nhiêu là chữ. Các thầy vẫn là thầy, dù các thầy đã vui vẻ bảo, gọi anh cũng được. Bây giờ gặp lại nhau, thầy trò đa số đã bước qua ngưỡng cửa tri thiên mệnh, nhắc lại tích xưa, chốn cũ, người này, chuyện kia... Cũng là dịp cho tôi, hay cho những ai là đã từng là học trò của “trường làng xưa”, nói lời cám ơn đến thầy cô. Ý đã mang trong tâm mấy chục năm qua, nay nói được thành lời. Cám ơn trường lớp, thầy cô, bạn bè đã vẽ thêm những nét tuyệt vời trong bức tranh kỷ niệm thời niên thiếu của tôi.

 

Hoàng Quân

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi bị bắt tại huyện Tân Hiệp chiều ngày hai mươi, giáp Tết. Lý do, mang theo hàng không giấy phép. Thế là tiêu tan hết vốn lẫn lời mà tôi chắt chiu, dành dụm gần cả năm nay. Nhớ đến mẹ và gia đình trong những ngày Tết sắp tới, tôi vừa buồn vừa tức đến bật khóc. Xui rủi, biết trách ai. Tiễn, anh phụ lơ, đã cẩn thận cất dấu hàng cho tôi, vã lại anh cũng quá quen biết với đám công an trạm kiểm soát. Không ngờ chuyến nầy bọn công an tỉnh xuống giải thể đám địa phương, nên tôi bị “hốt ổ” chung cả đám. Đây không phải là lần đầu bị bắt, nhưng lại là lần đầu tiên tôi đi chuyến vốn lớn như vầy. Năm ký bột ngọt, năm ký bột giặt, hơn chục ống thuốc cầm máu và trụ sinh hàng ngoại. Bột ngọt, bột giặt không nói gì, nhưng hai thứ sau hiếm như vàng mà giới “chạy hàng” chúng tôi gọi là “vàng nước”. Nên thay vì đưa về khu tạm giam huyện chờ lập biên bản, hồ sơ xét xử tôi nghe bọn công an thì thầm, bàn tán giải thẳng về khám lớn tỉnh Rạch Giá.
Quỳnh Lâm báo tin sẽ đến Đức trong tuần lễ đầu tháng 10. Nisha vội vàng thu xếp “sự vụ lệnh“ để công du sang Đức. Nisha lo đi chợ sắm sửa đầy mấy tủ lạnh, tủ đá, để mấy cha con sống còn trong thời gian nữ tướng đi xa. Chúng tôi hồi hộp quá, ngày nào cũng thư từ, nhắn nhủ, dặn dò đủ điều tẳn mà, tẳn mẳn. Điện thư qua, về hoa cả mắt. Thư nào chúng tôi cũng nhắc nhở nhau giữ gìn sức khoẻ, vì đứa nào cũng “lão” rồi. Khi gặp nhau, tụi tôi nhất thiết phải đầy đủ tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện. Có hôm, đến trưa, chưa nghe tăm tiếng, tôi sốt ruột, xuất khẩu làm thơ... bút tre:
Sống ở đây an toàn và bình an gần như một trăm phần trăm trong hiện tại và tương lai, nhưng không thể bình thản hóa quá khứ. Cuộc chiến khốc liệt giữa thiên thần và ma quỉ luôn ám ảnh ông. Có những điều gì thao thức, âm thầm nghi hoặc, nhoi nhúc sâu thẳm trong ông. Lòng tin vào ông Gót có phần nào lung lay. Đông cảm thấy có lỗi khi nghi ngờ bố, người đã giúp đỡ, bảo vệ ông và Vá. Nhưng nghi ngờ là một thứ gì không thể điều khiển, không thể đổi đi, không thể nhốt lại. Nó vẫn đến, mỗi lần đến nó vạch rõ hơn, nhưng vẫn mù sương như đèn xe quét qua rồi trả lại sương mù.
Trâm gật đầu nhè nhẹ. Đoan nghĩ thật nhanh đến một cảnh diễn ra mỗi đầu tháng trong sân trường. Nơi đó, các sinh viên xúm xít cân gạo và các loại “nhu yếu phẩm”, mang phần của mình về nhà. Rồi thì trong khu phố, cảnh những người dân xếp hàng “mua gạo theo sổ” cũng diễn ra mỗi ngày. Nói “gạo” là nói chung thôi, thật ra trong đó phần “độn” chiếm đa số. Phần “độn” có thể là bo bo, có thể là bột mì, cũng có thể là khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô. Nồi cơm nấu từ gạo và một thứ khác được gọi là nồi “cơm độn.” Mỗi ngày hai bữa cơm độn. Bo bo thì quá cứng vì vỏ ngoài chưa tróc, nấu trước cho mềm rồi cho gạo vào nấu tiếp, trở thành một “bản song ca” chói tai. Khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô thường bị sượng, ghế vào cơm rất khó ăn. Chỉ có bột mì tương đối dễ ăn hơn, vì người nấu có thể chế biến thành bánh mì, nui hay mì sợi
Mùa đông, tuyết đóng dầy trên mái nhà. Ấy là lúc bà ngoại cũng lo là lũ chim - những con chim của ngoại - sẽ chết cóng. Nhưng bà không biết làm gì để cứu chúng nó. Ngoại đi tới đi lui từ phòng khách qua nhà bếp. Thở dài. Rên rỉ. Rồi lẩm bẩm, “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.” Bà ngoại tội nghiệp những con chim chết lạnh. Sinh nhật ngoại, chúng tôi chung tiền mua quà. Một con sáo trong chiếc lồng tuyệt đẹp. Bà ngoại cưng nó hơn cưng chị em tôi. Cho nó ăn, ngắm nghía bộ lông đầy màu sắc của nó. Chăm chú lắng nghe tiếng hót véo von lúc chớm nắng bình minh và buổi hoàng hôn nắng nhạt. Rồi một buổi sáng nọ tiếng chim thôi líu lo. Bà ngoại chạy ra phòng khách. Hấp tấp tuột cả đôi guốc mộc. Con chim sáo nằm cứng sát vách lồng. Hai chân duỗi thẳng. Cổ ngoặt sang một bên. Con chim của ngoại đã chết. Bà ngoại buồn thiu cả tuần lễ. Bố mẹ tôi bàn tính mua con chim khác. Bà gạt ngang.
Tôi là người viết báo nghiệp dư. Từ khi khởi viết vào năm 1959, tay cầm viết luôn là nghề tay trái. Tôi sống bằng nghề tay phải khác. Cho tới nay, nghề chính của tôi là…hưu trí, viết vẫn là nghề tay trái. Tôi phân biệt viết báo và làm báo. Làm báo là lăn lộn nơi tòa soạn toàn thời gian hoặc bán thời gian để góp công góp sức hoàn thành một tờ báo. Họ có thể là chủ nhiệm, chủ bút, tổng thư ký, thư ký tòa soạn hay chỉ là ký giả, phóng viên. Nhưng tôi nghĩ người quan trọng nhất trong tòa soạn một tờ báo là ông “thầy cò”. Thầy cò ở đây không có súng ống hay cò bóp chi mà là biến thể của danh từ tiếng Pháp corrector, người sửa morasse. Morasse là bản vỗ một bài báo cần sửa trước khi in.
Sáu tuần. Nàng đã đi ra khỏi mụ mị từ trong mối tình hiện tại của mình. Cô bạn gái hỏi "Tỉnh chưa?". Tỉnh rồi, nhưng tỉnh không có nghĩa không yêu anh ấy nữa, chỉ là không còn mụ mị mê muội nữa thôi...
Trong bóng tối dày đặc, dọ dẫm từng bước một, hai tay vừa rờ vào hai bên vách hang động, vừa quơ qua quơ lại trước mặt, dù cố mở mắt lớn, chỉ thấy lờ mờ, nhiều ảo ảnh hơn là cảnh thật. Cảm giác bực bội vì đã trợt té làm văng mất ba lô, mất tất cả các dụng cụ, thực phẩm và nước uống cần thiết. Bối rối hơn nữa, đã rớt chiếc đèn bin cầm tay, mất luôn chiếc đèn bin lớn mang bên lưng và máy liên lạc vệ tinh có dự phòng sóng AM. Giờ đây, chỉ còn ít vật dụng tùy thân cất trong mấy túi quần, túi áo khoát và hoàn toàn mất phương hướng. Chỉ nhớ lời chỉ dẫn, hang động sẽ phải đi lên rồi mới trở xuống. Trang nghĩ, mình có thể thoát ra từ lối biển. Là một tay bơi có hạng, nàng không sợ.
Cô người Nha Trang, lớn lên và đi học ở đó. Cô sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, mẹ cô đi dậy học, ông thân cô cũng là hiệu trưởng một trường trung học lớn ở Phú Yên. Năm 22 tuổi, cô học năm cuối đại học văn khoa Huế thì gặp gỡ chú Hiếu trong một dịp hội thảo sinh viên do các biến động thời cuộc miền Trung bắt đầu nhen nhúm. Chú Hiếu lúc đó đang theo cao học luật. Họ thành đôi bạn tâm giao tuổi trẻ, sau thành đôi uyên ương. Ba năm sau khi Trang vừa 25 tuổi, Hiếu đã nhậm chức chánh án tòa thượng thẩm.
Nhà trẻ kế bên bệnh xá. Trong góc một trại giam. Nhà trẻ có sáu đứa con nít. Bệnh xá có mấy bệnh nhân già. Coi bệnh xá là một tù nam nguyên là y tá ngoài đời. Coi nhà trẻ là một tù nữ án chung thân. Coi cả hai nơi ấy là một công an mà mọi người vẫn gọi là bác sĩ! Sáu đứa con nít đều là con hoang. Mẹ chúng nó là nữ tù bên khu B, đừng hỏi cha chúng đâu vì chúng sẽ không biết trả lời thế nào. Cũng đừng bao giờ hỏi mẹ chúng nó về chuyện ấy vì rằng đó là chuyện riêng và cũng là những chuyện rất khó trả lời. Thảng hoặc có ai đó được nghe kể thì lại là những chuyện rất tình tiết ly kỳ lâm ly bi đát… chuyện nào cũng lạ, chuyện nào cũng hay
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Ông Hải đứng trước của nhà khá lâu. Phân vân không biết nên mở cửa vào hay tiếp tục đi. Tâm trạng nhục nhã đã ngui ngoai từ lúc nghe tiếng chim lạ hót, giờ đây, tràn ngập trở lại. Ông không biết phải làm gì, đối phó ra sao với bà vợ béo phì và nóng nảy không kiểm soát được những hành động thô bạo.
DB Derek Trần: Tôi làm tất cả để bảo vệ cộng đồng mình trong vấn đề di trú

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.