Hôm nay,  

Như Niềm Tin Tôn Giáo, Vô Thần Cũng Có Nhiều Thuyết Khác Nhau

17/11/202300:00:00(Xem: 2874)
vo than

Có nhiều kiểu vô thần khác nhau, có thể được phân loại là không theo tôn giáo, không có tín ngưỡng và bất khả tri. (Nguồn: pixabay.com)


Hiện nay trên thế giới được cho là có khoảng 10,000 tôn giáo. Hầu hết mọi người đều quen thuộc với những tôn giáo lớn như Cơ đốc giáo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo, Phật giáo, v.v… nhưng cũng có hàng trăm triệu người khác tin vào các tín ngưỡng dân gian, tín ngưỡng truyền thống hoặc tín ngưỡng bộ lạc.
 
Các nhà thần học, nhân chủng học và xã hội học đã giúp phân loại các tôn giáo đâu ra đó. Họ dành cả đời để phân định giữa những khác biệt nhỏ nhất, thâm cung bí sử nhất. Hình tượng, tín ngưỡng, nghi lễ, thờ cúng, cầu nguyện và cộng đồng đóng vai trò vạch ra ranh giới giữa các tín ngưỡng này.
 
Nhưng vẫn còn thiếu một cái gì đó: những người thuộc một loại triết lý vô thần nào đó. Nhóm này không hề ít. Hoa Kỳ có hơn một tỷ người, tương đương khoảng một phần tư dân số, không theo một tôn giáo nào, khiến cho ‘không tín ngưỡng’ trở thành một loại “tín ngưỡng” lớn thứ hai ở Mỹ. Ở Anh, khoảng 60% dân số không bao giờ đi nhà thờ, còn ở Na Uy hiện nay có nhiều người vô thần hơn là người có tín ngưỡng.
 
Điều đáng chú ý là không phải tất cả triết lý vô thần đều giống nhau.
 
Các loại triết lý vô thần (atheism)
 
Vấn đề của những số liệu thống kê là chúng không nói lên toàn bộ câu chuyện. Thuật ngữ “phi tôn giáo” (non-religious) rộng đến mức gần như chẳng có nghĩa lý gì. Các từ như thế tục (secular), bất khả tri (agnostic), vô thần (atheistic), nhân văn (humanistic), không có niềm tin tôn giáo (irreligious) hoặc phi tôn giáo (non-religious) không phải là những từ đồng nghĩa. Hơn một tỷ người trên thế giới thuộc các thuyết vô thần khác nhau, và sự khác biệt rất quan trọng.
 
Việc phân biệt các thuyết vô thần này không phải là việc dễ dàng, đặc biệt là vì phần lớn trong số họ không muốn được gọi là “tín đồ.” Một số người cho rằng nên mô tả phi tôn giáo như một thang đo (chẳng hạn như thang đo “khả năng có Chúa” từ mức 1-7 mà Richard Dawkins gợi ý trong The God Delusion). Nhưng làm vậy cũng chỉ như ‘con trâu đi trước cái cày.’ Không phải tất cả tôn giáo đều hướng tới khả năng xảy ra, sự chắc chắn hoặc đồng ý thừa nhận đối với các tuyên bố khác nhau (tức là không phải lúc nào cũng chăm chăm xác nhận xem vị thần, thánh nào đó có thật hay không có thật).
 
Nói rộng ra, những người vô thần có thể có ba loại: người không theo tôn giáo (nonreligious), người không tin vào tôn giáo (nonbelievers) và người bất khả tri (agnostic). Danh sách này không phải để phân biệt rạch ròi ai thuộc loại nào, vì các loại triết lý vô thần thường đan xen chồng chéo lên nhau.
 
Người không theo tôn giáo (nonreligious)
 
Loại triết lý vô thần đầu tiên có nghĩa là không theo một trong những tôn giáo truyền thống lớn.
 
Hãy xem xét Trung Quốc. Thoạt nhìn, đây là một đất nước đại đa số là không có niềm tin tôn giáo (irreligious): 91% người dân Trung Quốc có thể được gọi là người vô thần. Nhưng phần lớn dữ liệu này, cũng như trong hầu hết các cuộc khảo sát về nhân khẩu học, đều là để cho người ta tự trả lời câu hỏi. Vấn đề nằm ở chỗ hầu hết mọi người ngày nay sẽ có cách hiểu riêng về tôn giáo. Nhiều người coi đó là chính thức theo những tín ngưỡng hoặc nghi thức của các tôn giáo có tổ chức hẳn hoi. Nó có nghĩa là siêng năng đi nhà thờ, cầu nguyện năm lần một ngày, hoặc tin tưởng vào Tứ Diệu Đế (Four Noble Truths). Nhưng sự thật là tôn giáo vô cùng bao la hơn thế nhiều.
 
Quay lại với trường hợp của Trung Quốc, 91% dân số cho rằng họ là người “vô thần,” nhưng có 70% dân số thờ cúng ông bà tổ tiên. 12% tự nhận mình theo một số tín ngưỡng dân gian, và đại đa số tin vào thứ gần như là tôn giáo – “y học cổ truyền.”
 
Đối với nhiều người, “triết lý vô thần” có nghĩa là không tin vào một tôn giáo chính thức nào. Đối với một số khác, từ này có thể gần giống với từ nguyên của nó hơn, trong đó “a-theism” có nghĩa là anti-theistic belief, niềm tin chống lại thần học, hay không tin có thần thánh nào cả. Nhiều người trong số này là người theo “triết lý thần bí” – nghĩa là họ không nghĩ các hình ảnh hay ý tưởng về Chúa hoặc Phật là đúng, nhưng họ cảm thấy rằng có tồn tại một thực tế tâm linh nào đó.
 
Đó là một sự tò mò phổ biến khắp mọi nơi. Một “người vô thần” cũng có thể tin là có thiên thần, tiên nữ, nghiệp chướng, nhân quả, nghiệp chướng thiêng liêng, linh hồn, ma quỷ, âm hồn hoặc cầu cơ. Những điều này không tạo ra một tín ngưỡng hẳn hoi, nhưng chúng cũng là một dạng tín ngưỡng nào đó.
 
Người không tín ngưỡng, hay người không tin vào tôn giáo (nonbelievers)
 
Loại triết lý vô thần thứ hai là loại triết lý chống lại hoặc bác bỏ những tuyên bố nào đó về tín ngưỡng.
 
Những người vô thần kiểu này sẽ định nghĩa tôn giáo (chưa bàn tới đúng hay sai) là một tập hợp các tín điều, tín ngưỡng và những tuyên bố mà họ cho là không có thật. Đó là loại triết lý vô thần mà hầu hết chúng ta đều thấy quen thuộc và thường xuất hiện nhan nhản trên Internet.
 
Những người vô thần này sẽ nói “Chúa Giê-su sống lại từ cõi chết,” “Ngồi thiền rồi bay bổng” hoặc “Thiên thần Jibril đã nói chuyện với Muhammed” đều là những điều chẳng thể chứng minh được hoặc không nên tin. Chúng là những sự thật cần chứng thực hoặc bác bỏ. Những người vô thần hiện đại như Richard Dawkins và Sam Harris, và những người cao niên hơn như David Hume hay John Stuart Mill, đều thuộc loại này. Họ chỉ ra những gì họ cho là không đúng, mâu thuẫn hoặc phi lý trong những gì tôn giáo dạy.
 
Người theo triết lý vô thần “không tín ngưỡng” thường sẽ tấn công vào các giá trị của một tôn giáo hoặc thậm chí chính tôn giáo đó. Họ cho rằng tôn giáo là nguyên nhân dẫn đến sự nhẫn tâm, thành kiến, phân biệt chủng tộc, kỳ thị phụ nữ, diệt chủng, bạo lực, tàn ác, mê tín, thiếu hiểu biết… vậy nên phải dẹp bỏ tôn giáo.
 
Người theo thuyết bất khả tri (agnostic)
 
Loại triết lý vô thần thứ ba là vô thưởng vô phạt. Nó được gọi là thuyết bất khả tri.
 
Nếu chúng ta định nghĩa triết lý vô thần là một tuyên bố về niềm tin – cụ thể như là “Tôi chắc chắn 100% rằng Chúa không tồn tại” – thì thật sự sẽ có rất ít người vô thần. Nhiều kiểu người “không tín ngưỡng” khá quan tâm đến khả năng và việc xác minh những chuyện liên quan đến tín điều. Tuy nhiên, có nhiều chuyện thuộc về siêu nhiên không thể loại trừ hoàn toàn.
 
Con người là sinh vật bằng xương bằng thịt, các giác quan có thể sai sót và sự thông tuệ có thể bị ảnh hưởng. Như vậy, rất ít người khẳng định chắc chắn về tính siêu hình và tính vô cực. Rất nhiều người tự nhận mình là người vô thần nhưng thực ra lại là người bất khả tri. Họ có thể nghĩ rằng tôn giáo rất khó có thể đúng (như Dawkins đã nghĩ) hoặc chấp nhận các khả năng khác nhau ở mức độ nào đó. Những người khác ngừng phán xét – dù sao cũng không có gì chứng minh được, vậy hà cớ gì phải một mực khăng khăng?
 
Như William James đã lập luận trong bài tiểu luận “The Will to Believe,” người bất khả tri kiểu này (hay “người hoài nghi”) cũng tương đương với triết lý vô thần. Nếu chúng ta sống qua năm tháng mà không quan tâm đến tôn giáo, không sống một cuộc đời của tín hữu, thì nó giống “như thể chúng ta đã chọn cách không tin.” Sự khác biệt giữa những người bất khả tri và những người vô thần chỉ đơn giản là sự khác biệt về nhận thức luận. Đối với cả hai, đơn giản là tôn giáo không quan trọng.
 
Học cách nói về hoài nghi
 
Một nửa số người trưởng thành ở Hoa Kỳ “hiếm khi hoặc không bao giờ” nói về tôn giáo với người ngoài. Ở Anh, tôn giáo là một chủ đề trò chuyện mang tính riêng tư cá nhân đối với hầu hết mọi người.
 
Nhưng tín ngưỡng của chúng ta, hay tôn giáo, là những điều quan trọng nhất về con người chúng ta. Việc chia sẻ và thảo luận với người khác không chỉ giúp chúng ta hiểu bản thân mình hơn mà còn mang tất cả mọi người lại gần nhau hơn. Xung đột thường nảy sinh từ sự hiểu lầm và thiếu hiểu biết, và rất nhiều sự bất hòa có thể tránh được bằng đối thoại nhằm tìm cách làm sáng tỏ niềm tin của mọi người.
 
Và cũng có một chủ đề thú vị khác: sự hoài nghi. Chúng ta đều có niềm tin, nhưng chúng ta cũng có những hoài nghi. Ngay cả những người theo triết lý hữu thần cũng bác bỏ sự tồn tại của một số vị thần, phải chăng sự hoài nghi cũng chính là một phần của niềm tin.
 

Cung Đô sưu tầm và biên dịch

Nguồn: “Not believing is the second biggest “belief” in the U.S.” được đăng trên trang bigthink.com.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở Hoa Kỳ, khi nghe đến cụm từ “giáo dục tổng quát,” người ta thường hình dung về những khóa học nhập môn trong các lĩnh vực nghệ thuật, nhân văn, khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và toán học. Tùy vào mỗi trường, chương trình này có thể mang những cái tên khác nhau như “chương trình căn bản” (core curriculum) hay “các môn học bắt buộc” (distribution requirements). Ngoài ra, chương trình này đôi khi còn có một tên gọi khác là “giáo dục khai phóng” (liberal education). Hội các trường Cao đẳng và Đại học Hoa Kỳ (American Association of Colleges and Universities, AACU) mô tả đây là chương trình giúp bồi dưỡng “tinh thần trách nhiệm xã hội, cùng với các kỹ năng trí tuệ và thực tiễn vững vàng có thể vận dụng linh hoạt.”
Trong nhiều năm kể từ khi Jeffrey Epstein được phát hiện chết trong phòng giam tại Metropolitan Correctional Center (MCC), New York, giới chức liên bang luôn khẳng định rằng cái chết này là một vụ tự sát. Tuy nhiên, một cuộc điều tra độc lập do CBS News thực hiện đã phơi bày hàng loạt mâu thuẫn giữa các tuyên bố của chính phủ và những gì thực sự hiện ra trong đoạn phim giám sát vừa được công bố.
Cuối mùa Hè năm 1955, Till-Mobley tiễn con trai của bà, Emmett Till 14 tuổi lên một chuyến tàu từ Chicago đến thăm chú và các anh em họ của Emmett ở quê hương Mississippi của bà. Giống như những phụ nữ và đàn ông da đen nói với con cái họ về việc chú ý các điểm dừng giao thông và các cuộc chạm trán khác với cảnh sát, Till-Mobley đã căn dặn Emmett rất kỹ. Bà cho cậu biết cậu đang đi đến một nơi mà an toàn phụ thuộc vào khả năng kiềm chế sự bốc đồng, tính cách không khuất phục của cậu với người da trắng. Linh cảm của người mẹ mang đến trong lòng bà nỗi bất an không giải thích được. Bà đưa cho Emmett chiếc nhẫn bạc của ông Louis Till, cha của cậu. Chiếc nhẫn khắc chữ L.T.
“Đi về Miền Nam, miền hương thơm bông lúa tràn ngập đầy đồng; Đi về Miền Nam, miền xinh tươi đất rộng cùng chung nguồn sống” Và cứ như thế, với tiếng hát trong tâm tưởng, từng đoàn người gồng gánh ra đi. Họ đi về hướng Nam giống như cha ông của mình từ bao nhiêu thế kỷ trước. Bây giờ lại còn một động lực mới và mãnh liệt khác, đó là đi tìm tự do: ‘chúng tôi muốn sống!’, như tên gọi một cuốn phim nổi tiếng của đồng bào di cư sau này. Cuối tháng 6, dù hiệp định đình chiến chưa ký kết nhưng quân đội Pháp và Quốc gia đã rút lui khỏi nhiều địa điểm ở đồng bằng Bắc Việt nên nhiều người bắt đầu di tản về các đô thị, đặc biệt là Hải phòng.
Cõi này ngày càng bất an! Tình trạng hâm nóng toàn cầu đã dẫn tới nhiều thảm họa như bão lụt, hạn hán, mực nước biển dâng cao, dịch bệnh, mất mùa, đói khát lầm than. Chiến tranh thù hận ngày càng hung bạo đã làm cho hàng triệu người thương vong, nhà cửa ruộng vườn bị phá hoại. Các chế độ độc tài, quân phiệt, và nạn kỳ thị sắc tộc đã thẳng tay đàn áp dân lành. Tất cả những điều trên đã dẫn đến thảm trạng bỏ nước đi của hàng triệu người trên thế giới! Theo Population Division of the United Nations Department of Economic and Social Affairs (UNDESA), năm 2024 có tới 304 triệu di dân trên toàn cầu, là một con số tăng gần gấp đôi kể từ năm 1990, khi lúc đó có 154 triệu di dân trên thế giới. Đó là 3.7% tổng dân số địa cầu. Theo Cơ Quan Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, tính tới cuối năm 2024, có 43.7 triệu người tị nạn, gồm 6 triệu người tị nạn từ Palestine và 8 triệu người xin được nhận vào quy chế tị nạn trên toàn cầu.
Trong số người Việt, thế hệ thứ nhất có 29% học xong cử nhân hay cao hơn. Thế hệ sinh ra lớn lên tại Hoa Kỳ con số này là 59%. Như thế có thể lý giải là phụ huynh không có cơ hội học cao nhưng khuyến khích con theo đuổi đường học vấn cho tương lai.
Khi các chuyên gia quan ngại về mối quan hệ của giới trẻ với thông tin trực tuyến, họ thường cho rằng giới trẻ tuổi không hiểu biết về phương tiện truyền thông như những người lớn tuổi hơn. Nhưng công trình nghiên cứu dân tộc học do Jigsaw – cơ sở công nghệ của Google - thực hiện lại tiết lộ một thực tế phức tạp và tinh tế hơn: Thế hệ Z, thường được hiểu là những người sinh sau năm 1997 và trước năm 2012, đã phát triển các chiến lược khác biệt rõ rệt để đánh giá thông tin trực tuyến, những chiến lược sẽ khiến bất kỳ ai trên 30 tuổi trở nên bối rối. Họ không tiếp thu thông tin như những người lớn tuổi hơn bằng cách đầu tiên đọc tiêu đề và sau đó là nội dung.
Người Việt Nam không ai xa lạ với từ ‘Gulag’ - trại tù lao động khổ sai khét tiếng của Liên Bang Xô Viết. Ước tính trong khoảng hai thập niên từ 1930-1953, nơi đây giam giữ khoảng 4 triệu tù nhân; 1.5 triệu đã chết trong tù hay sau khi được thả một thời gian ngắn. Gulag từng được xem là địa ngục trần gian, là biểu tượng cho sự tàn bạo của nhà tù cộng sản. Trong những ngày cuối tháng 6, khi mà người dân Mỹ chuẩn bị pháo hoa đón mừng Lễ Độc Lập, cái tên Gulag được sử dụng khi nói đến một nhà tù mới được hình thành ở Florida. Nhà tù này có tên gọi là Alligator Alcatraz. Trong một bài viết được đăng trên trang mạng Amrican Community Media ngày 30/06/2025, nhà báo Laszlo Bartus đã cảnh báo rằng nó sẽ là nhà tù vô nhân đạo nhất thế giới.
Trong hơn bảy mươi năm qua, quan hệ giữa Hoa Kỳ và Iran đã trải qua nhiều bước ngoặt – từ một liên minh chiến lược thời Chiến tranh Lạnh, đến một trong những nước đối đầu gay gắt và kéo dài nhất của thời đại hậu thuộc địa. Bản tóm lược dưới đây ghi lại những cột mốc chính từ năm 1953 đến 2025, nhằm cung cấp một cái nhìn toàn diện về diễn biến phức tạp của quan hệ Hoa Kỳ–Iran trong bối cảnh biến động địa chính trị toàn cầu.
Tháng 5 vừa qua, một chuyến bay từ Johannesburg, Nam Phi đã đáp xuống phi trường Quốc tế Dulles, Hoa Kỳ. Trên phi cơ là khoảng 50 công dân Nam Phi da trắng thuộc cộng đồng Afrikaner. Những người này cho biết sinh kế của họ đang bị đe dọa nghiêm trọng do xã hội ngày càng “kỳ thị người da trắng.” Cách mô tả tình hình Nam Phi như vậy ngay lập tức nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ từ các nhà bình luận cánh hữu có ảnh hưởng ở Mỹ như Tucker Carlson, Charlie Kirk, và Stephen Miller.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.