Hôm nay,  

Để Cho Ngày Ngắn – Ngậm giấc mơ tình đầy...

11/23/202310:00:00(View: 3998)
Để cho ngày ngắn và tác giả

Để C
ho Ngày Ngn, NXB Thuận Hóa, tháng 9/2022, là tập thơ sau 3 tác phẩm sáng tác bằng tiếng Việt và 4 tác phẩm dịch thơ, văn bằng hữu. Sách dày 224 trang với 144 bài thơ, lời giới thiệu của nhà văn Sóng Triều và những cảm nhận của các Giáo sư, Tiến sĩ, dịch giả, văn thi sĩ trong và ngoài nước của cô giáo, nhà thơ, dịch giả Võ Thị Như Mai, hiện đang sống và giảng dạy ở Western Australia (Bang Tây Úc).
    Nếu như Để Cho Ngày Ngắn, với nhà văn Sóng Triều là “Gần như là 100 mệnh đề với những khổ thơ tiếp nối, tựa bức tổng phổ diễn đạt đa nhiệm màu sắc cuộc sống bằng rất nhiều ngôn ngữ suy tưởng lặn chìm...” thì Giáo sư, dịch giả Nguyễn Đại Hoàng nhận xét: “Nhà thơ, dịch giả Như Mai VT, xuất hiện trên thi văn đàn Việt Nam như một lẽ bình thường chứ không phải bất ngờ, hay bất thường, một đặc tính mà ta thường gặp trong thơ cô. Bởi thơ Như Mai ẩn dụ rất nhiều nhưng Hiểu Được! Bởi thơ Như Mai ngoài tình yêu còn đề cập đến khá nhiều thực tế đời sống và cách sống nhưng không sa đà vào lý luận hay rao giảng mà thường chỉ nêu vấn đề, nêu cảm nhận và thái độ của mình, điều này khiến thơ Như Mai nhận được sự yêu mến, chia sẻ của độc giả...”
    Với tôi, Để Cho Ngày Ngắn của Mai, không chỉ là ẩn dụ mà còn là khao khát vươn tới, nói theo cách của Mai là “Để cho ngày ngắn tình đầy trong nhau”, không phải chỉ là hiện tượng đơn thuần của “Ngày ngắn, đêm dài”như nhân gian vẫn hay nhắc nhớ, bởi trong bài thơ Để Cho Ngày Ngắn ở trang 211 và cũng là nhan đề chung của cả tập thơ, Võ Thị Như Mai đã viết: “Ngậm giấc mơ băng qua những triền đồi / Ta đã đi qua biết mấy thu rồi / Con đường vắng dấu chân người ở lại / Tiếng thời gian đong đưa giờ xa ngái / Anh có về hái giùm đóa phù dung...” Không phải “ngậm ngải”như người xưa đi tìm trầm, một vật quý hiếm, nữ thi sĩ lại “Ngậm giấc mơ”, chỉ để tìm “Tình đầy”, nhắc kỷ niệm mùa thu, và cả mơ anh hái giùm “đóa phù dung”, một loài hoa sớm nở tối tàn, đơn giản hay ngắn ngủi như tuổi xuân của người con gái hay xa hơn là tuổi xuân của một đời người, vì bởi: “Mình cùng lên đỉnh núi ngước nhìn sao / Ngắm mặt trời ngủ quên chăn gối nhớ / Chợt nắng ban mai vén mây bỡ ngỡ / Đêm nũng nịu ngày trước lúc chia xa”. Hạnh phúc đơn giản chỉ chừng ấy, cho dù là “Bình minh lên em rực rỡ kiêu sa”, thì nỗi mong thực tại vẫn là: “Anh đợi em bằng giấc mơ ngậm gió / Để cho ngày ngắn tình đầy trong nhau”. Rất trăn trở, song cũng rất nồng nàn, khi trong tình yêu, nữ thi sĩ quan niệm: “Nhuộm anh” (trang 38), “Cũng cuồn cuộn trong anh” (trang 39), rồi “Dìu anh về phía vô cùng” (trang 41) hay cuối cùng là “Ngày anh lặn vào em” (trang 58), đó là “Ngày anh lặn vào em / Vầng trăng lưỡi liềm sau rặng tre xao gió / Đom đóm em đêm ngậm cỏ / Ôm bầu trời nhỏ và nói yêu em...” (trang 58).
    Bên cạnh tình yêu “nồng nàn”với những hình ảnh da diết, bạo liệt: “x tung tẩy miền ngực / Đỏ rực và hừng hực thanh xuân”(Đan chuyện tình yêu, trang 170), hay chút dịu dàng, đằm thắm: “Buổi sáng tiếng chim tròn đầy róng riết / Điệu trần tình tháng chín nốt thương/ Em nhớ anh giữa dòng chảy vô thường / Sông Swan gọi tên người yêu dấu...” (Dìu anh về phía vô cùng, trang 41). Thì cuối cùng vẫn “nhi nữ thường tình” trong bể ái, tình yêu: “Em khóc nhau / một kiếp vô thường / chỉ đóa hoa vô ưu muôn đời ở lại / ghi dấu tích hai người / thanh thoát ý tâm linh.” (Em khóc, trang 68).
    Thơ Võ Thị Như Mai, còn có một “chữ tình”dành cho mẹ, cho ông, cho con trai, cho bạn gái, và những bài thơ đó được đặt theo thứ tự 1, 2, 3, 4 và dành cho những trang đầu của tập thơ. Hãy nghe Mai thủ thỉ với mẹ: “Con vẫn làm thơ tặng người xưa / Nhưng không có bài nào cho mẹ...” Hình bóng mẹ bao giờ cũng: “Mẹ cả đời lận đận với tụi con, với ba / Lận đận cả một thời con gái / Mẹ vẫn oằn mình lo chuyện áo cơm” (trang 14). Nhà thơ đi xa, và chợt thèm “mấy món ăn mẹ nấu” một tình yêu đơn giản nhưng cũng đầy cá tính khi trái tim luôn ấp ủ hình bóng mẹ! Có lẽ cũng từ mạch nguồn này, mà đối với Dani, đứa con trai của thi sĩ, Như Mai đã tha thiết: “Khi con chào đời / mẹ con mình vụng về như nhau / ông trời quên gửi lời hướng dẫn / xin lỗi con mẹ cố hết sức mình” (Dani, trang 15), cũng là bóng dáng người mẹ tảo tần ở một cung bậc khác đó thôi! Và đây là hạnh phúc: “Dani boy Dani boy Dani boy/ tuổi mười lăm dấu yêu / mẹ con ta những viên đá cuội / dưới đáy hồ lách tách vui reo” (trang 16). Riêng với “Ông tôi”, cái tình và sự kính yêu đã trở thành những vần thơ hồn hậu: “Những con đường Đà Lạt / Thơm lừng hoa màu nhớ / Mỗi chiếc lá non tơ / Tuổi thơ ông hồi sinh từ chồi biếc...” và đó là niềm tin yêu: “Đi mải miết về phía bên kia địa cầu / Mỗi khi lòng đượm ưu tư / Tôi dõi mắt về hành tinh ông / Nghe lòng mình thảnh thơi như hạt sương chiếc lá / Bởi ông là cây cao bóng cả / Tỏa ánh sáng cuộc đời” (trang 18). Những tình cảm đơn sơ, thuần khiết, làm nên một tình bạn đẹp, phải chăng cũng như một mối tình: “Chiều đẫm buồn như cánh cửa khép / khi người bạn gái ngoảnh mặt bỏ đi...” (trang 19), để rồi: “Bạn cứ khóc cho niềm đau gột rửa” và “Bạn về tung tăng chải tóc soi gương / Vuốt nếp nhăn đa đoan bên khóe mắt / Mộng mơ một thời cuốn lại chân mây” (trang 22). Bạn cũng chính là chân dung tự họa của tác giả để cho tất cả đều “tình đầy trong nhau”?
    Ngôn từ giản dị, không đa nghĩa, hình ảnh có khi “nóng” song vẫn rất thật và cũng dễ thương, nữ tính, có lẽ nhà thơ vốn là một dịch giả, nên không cần cầu kỳ, bí hiểm trong câu chữ? Song thi sĩ cũng cần một chút “Thiền” thời thượng, khi viết “Hạnh thiền” Người đã đến cõi trần vội vã / Trả và vay một kiếp phiêu bồng/ Người ra đi màu xanh của lá / Lịm ngát chiều buốt phía hư không” (trang 35). Hay “Ước gì trái đất quay ngược lại / Chúng mình tái sinh / tan ngã. Hạnh Thiền!” (trang 36), có gì đó hơi xa với những câu thơ rất đời thường, dân dã: “Thôn mình vào mùa gặt hái tinh tươm / nụ cười anh đượm vàng em đồng lúa / én lượn mênh mang trẻ con ca múa / làng quê rưng rưng tình biếc nảy chồi” (Làng quê, trang 142).
    114 bài thơ, với nhiều cung bậc khác nhau, đằm đẵm nữ tính và cũng rất giản dị về cuộc sống, trong một chữ Tình tìm kiếm về quê hương, về nơi trú ngụ và cả đời thường, tuy nhiên, người đọc đôi lúc vẫn bắt gặp những “trùng lắp”trong cảm xúc, diễn đạt, nên chăng cũng cần chọn lọc và sắp đặt lại trong những lần tái bản sau. Bởi Hans Sachs, một nhà thơ, nhà soạn kịch người Đức đã phát biểu: “Tất cả cảm hứng thi ca đều chỉ là giải mã những giấc mơ”. Thi sĩ đã “Ngậm giấc mơ”để mong “Đêm ngắn, tình đầy”, thì không ai... ngậm những giấc mơ chưa... đầy.
 

– Trn Hoàng Vy

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Nhà văn Trịnh Y Thư vừa ấn hành tuyển tập Theo Dấu Thư Hương 2, gồm nhiều bài viết trong nhiều chủ đề đa dạng, phần lớn là về văn học nghệ thuật, đôi khi là lịch sử, khoa học, xã hội. Tuyển tập dày 294 trang, đang lưu hành trên các mạng, như Amazon và Barnes & Noble. Nhìn chung, tác phẩm giúp độc giả soi rọi thêm nhiều cách nhìn đa dạng, mới mẻ, kể cả khi tác giả viết về những người viết chúng ta đã quen thuộc trong văn học Việt Nam, như về Ngô Thế Vinh, Đỗ Hồng Ngọc, Nguyễn Thị Khánh Minh, và nhiều người khác...
Hans Fallada, tên thật là Rudolf Ditzen, người đã sống giữa những biến động của nước Đức — từ sự sụp đổ của Đế chế, đến cơn bão của Thế chiến thứ nhất, rồi bước vào cơn ác mộng của Đệ tam đế chế. Trước chiến tranh, Fallada là một nhà văn nổi tiếng, tác giả của Little Man, What Now?, được Hollywood dựng thành phim. Nhưng khi Hitler lên nắm quyền, ông bị cấm xuất bản, bị Gestapo rình rập, và bị ép phải viết những tác phẩm phục vụ tuyên truyền. Tưởng chừng như bị nghiền nát giữa bạo lực và sợ hãi, ông lại tìm thấy trong ngục tối một đường sống của tâm hồn – viết. Trong ngục tối, ông bí mật viết nên ba cuốn tiểu thuyết mã hóa, và sau chiến tranh, vừa thoát xác một người sống sót, ông viết cuốn cuối cùng: Mỗi người đều chết một mình (Every Man Dies Alone).
Năm 2025 đánh dấu một bước ngoặt đặc biệt trong hành trình của Ocean Vuong (1). Nhà văn, nhà thơ gốc Việt nầy đã trở thành một trong những khuôn mặt quan trọng nhất của văn chương Mỹ đương đại. Không còn là “hiện tượng thơ”, không còn được biết đến qua nỗi đau di dân, không còn đứng trong hào quang của Night Sky with Exit Wounds hay thành công bất ngờ của On Earth We’re Briefly Gorgeous trước đây, Ocean Vuong năm 2025 là một nhà văn đang mở ra biên giới mới của chính mình với The Emperor of Gladness, NXB Penguin Press, New York, 2025)...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Vâng, cảm ơn nhà thơ thiền sư Thiện Trí. Ý nghĩa rất minh bạch, rằng hãy về thôi. Về thôi, về mặc Cà Sa / Về thôi cởi áo Ta Bà phong sương... Hiển nhiên, không phải là đổi y phục, mà phải là chuyển hóa nội tâm. Cởi áo Ta Bà không đơn thuần là rời bỏ đời sống cư sĩ hay thế tục, mà là buông bỏ tâm vọng động, tâm phân biệt, tâm chấp ngã vốn đã bị phong sương của sinh tử bào mòn. Mặc áo Cà Sa không nhất thiết là khoác lên mình chiếc áo của người xuất gia, mà là khoác lên tâm từ bi, trí tuệ, và vô ngã.
Khăn quấn. Áo sơ sinh. Muối. Tuyết. Băng. Năm vật trắng - năm tiếng gọi đầu tiên - đặt lên trang giấy như một chuỗi hạt. Trong tay Han Kang, chúng vừa là dấu hiệu khởi sinh, vừa là định mệnh. Đứa trẻ chưa kịp sống đã được bọc trong khăn trắng, và cũng chính khăn quấn ấy trở thành tấm liệm. Trắng ở đây không phải nền sáng, mà là sự trống vắng ngân nhịp toàn cuốn sách. Han Kang, nhà văn Hàn Quốc được biết nhiều qua The Vegetarian, tác phẩm đã đem về cho bà giải Nobel Văn chương năm 2024, xuất hiện trong văn học thế giới như một cơn gió lớn. Nhưng The White Book mới là tác phẩm tôi rất yêu của Bà – những dòng chữ lặng mà sáng, mong manh mà bám riết.
Cuốn sách này là một công trình phục vụ cộng đồng nhân kỷ niệm 50 năm xa quê hương sống đời viễn xứ (1975-2025). Sách được in thành 2 tập – Tập 1 gồm 41 tác giả và Tập 2 gồm 45 tác giả. Như vậy, tổng cộng có 86 tác giả, trong đó có nhiều tác giả đã nổi tiếng từ trước 1975. Tám mươi sáu tác giả đến vùng đất này bằng những cách khác nhau, trình độ khác nhau, nghề nghiệp khác nhau nhưng có một điểm tất cả đều giống nhau. Đó là: Họ đã sống và viết bên dòng Potomac.
Ngày 17 tháng 9 năm 2025, thi sĩ “Công giáo” Lê Đình Bảng đã bước vào độ tuổi thượng thọ. Ông đã chính thức đạt 83 tuổi Tây và 84 năm tuổi ‘Mụ’. Một độ tuổi cần nghỉ ngơi, an dưỡng tuổi già. Song với tình yêu văn chương, chữ nghĩa và đặc biệt là niềm tin vào tôn giáo, ông vẫn như một thanh niên tráng kiện, đầy đức tin và nhiệt huyết, khi cho ra mắt thi phẩm thứ 25, sau rất nhiều tác phẩm nổi tiếng với nhiều thể loại khác nhau như văn xuôi, nghiên cứu lịch sử, tôn giáo...sáng tác kể từ năm 1967 miệt mài cho đến nay...
Tập truyện ngắn vừa phát hành của nhà văn Trần Kiêm Trinh Tiên có một nhan đề rất là buồn, “Hạt U Minh.” Nhiều truyện trong tập này như dường viết về các lằn ranh bị vượt qua. Thí dụ, lằn ranh tình yêu (hay như dường là tình yêu) giữa một ni cô và một chàng trai trong trường Dòng. Hay thí dụ, mối tình giữa một thiếu nữ Huế và chàng trai Mỹ, và chàng chết khi bùng nổ các trận đánh trong Tết Mậu Thân ở Huế. Hay như truyện cuối trong tập, khởi đầu là các hình ảnh liên hệ tới Kinh Thánh Ki Tô Giáo, giữa truyện là ký ức một thiếu nữ về một truyện Thiền... Cuộc đời, vâng cuộc đời, thực sự là không có lằn ranh, dù là màu da hay tôn giáo. Tác giả có vẻ như muốn nêu chủ đề từ những chuyện đời thường.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.