Hôm nay,  

Để Cho Ngày Ngắn – Ngậm giấc mơ tình đầy...

23/11/202310:00:00(Xem: 3537)
Để cho ngày ngắn và tác giả

Để C
ho Ngày Ngn, NXB Thuận Hóa, tháng 9/2022, là tập thơ sau 3 tác phẩm sáng tác bằng tiếng Việt và 4 tác phẩm dịch thơ, văn bằng hữu. Sách dày 224 trang với 144 bài thơ, lời giới thiệu của nhà văn Sóng Triều và những cảm nhận của các Giáo sư, Tiến sĩ, dịch giả, văn thi sĩ trong và ngoài nước của cô giáo, nhà thơ, dịch giả Võ Thị Như Mai, hiện đang sống và giảng dạy ở Western Australia (Bang Tây Úc).
    Nếu như Để Cho Ngày Ngắn, với nhà văn Sóng Triều là “Gần như là 100 mệnh đề với những khổ thơ tiếp nối, tựa bức tổng phổ diễn đạt đa nhiệm màu sắc cuộc sống bằng rất nhiều ngôn ngữ suy tưởng lặn chìm...” thì Giáo sư, dịch giả Nguyễn Đại Hoàng nhận xét: “Nhà thơ, dịch giả Như Mai VT, xuất hiện trên thi văn đàn Việt Nam như một lẽ bình thường chứ không phải bất ngờ, hay bất thường, một đặc tính mà ta thường gặp trong thơ cô. Bởi thơ Như Mai ẩn dụ rất nhiều nhưng Hiểu Được! Bởi thơ Như Mai ngoài tình yêu còn đề cập đến khá nhiều thực tế đời sống và cách sống nhưng không sa đà vào lý luận hay rao giảng mà thường chỉ nêu vấn đề, nêu cảm nhận và thái độ của mình, điều này khiến thơ Như Mai nhận được sự yêu mến, chia sẻ của độc giả...”
    Với tôi, Để Cho Ngày Ngắn của Mai, không chỉ là ẩn dụ mà còn là khao khát vươn tới, nói theo cách của Mai là “Để cho ngày ngắn tình đầy trong nhau”, không phải chỉ là hiện tượng đơn thuần của “Ngày ngắn, đêm dài”như nhân gian vẫn hay nhắc nhớ, bởi trong bài thơ Để Cho Ngày Ngắn ở trang 211 và cũng là nhan đề chung của cả tập thơ, Võ Thị Như Mai đã viết: “Ngậm giấc mơ băng qua những triền đồi / Ta đã đi qua biết mấy thu rồi / Con đường vắng dấu chân người ở lại / Tiếng thời gian đong đưa giờ xa ngái / Anh có về hái giùm đóa phù dung...” Không phải “ngậm ngải”như người xưa đi tìm trầm, một vật quý hiếm, nữ thi sĩ lại “Ngậm giấc mơ”, chỉ để tìm “Tình đầy”, nhắc kỷ niệm mùa thu, và cả mơ anh hái giùm “đóa phù dung”, một loài hoa sớm nở tối tàn, đơn giản hay ngắn ngủi như tuổi xuân của người con gái hay xa hơn là tuổi xuân của một đời người, vì bởi: “Mình cùng lên đỉnh núi ngước nhìn sao / Ngắm mặt trời ngủ quên chăn gối nhớ / Chợt nắng ban mai vén mây bỡ ngỡ / Đêm nũng nịu ngày trước lúc chia xa”. Hạnh phúc đơn giản chỉ chừng ấy, cho dù là “Bình minh lên em rực rỡ kiêu sa”, thì nỗi mong thực tại vẫn là: “Anh đợi em bằng giấc mơ ngậm gió / Để cho ngày ngắn tình đầy trong nhau”. Rất trăn trở, song cũng rất nồng nàn, khi trong tình yêu, nữ thi sĩ quan niệm: “Nhuộm anh” (trang 38), “Cũng cuồn cuộn trong anh” (trang 39), rồi “Dìu anh về phía vô cùng” (trang 41) hay cuối cùng là “Ngày anh lặn vào em” (trang 58), đó là “Ngày anh lặn vào em / Vầng trăng lưỡi liềm sau rặng tre xao gió / Đom đóm em đêm ngậm cỏ / Ôm bầu trời nhỏ và nói yêu em...” (trang 58).
    Bên cạnh tình yêu “nồng nàn”với những hình ảnh da diết, bạo liệt: “x tung tẩy miền ngực / Đỏ rực và hừng hực thanh xuân”(Đan chuyện tình yêu, trang 170), hay chút dịu dàng, đằm thắm: “Buổi sáng tiếng chim tròn đầy róng riết / Điệu trần tình tháng chín nốt thương/ Em nhớ anh giữa dòng chảy vô thường / Sông Swan gọi tên người yêu dấu...” (Dìu anh về phía vô cùng, trang 41). Thì cuối cùng vẫn “nhi nữ thường tình” trong bể ái, tình yêu: “Em khóc nhau / một kiếp vô thường / chỉ đóa hoa vô ưu muôn đời ở lại / ghi dấu tích hai người / thanh thoát ý tâm linh.” (Em khóc, trang 68).
    Thơ Võ Thị Như Mai, còn có một “chữ tình”dành cho mẹ, cho ông, cho con trai, cho bạn gái, và những bài thơ đó được đặt theo thứ tự 1, 2, 3, 4 và dành cho những trang đầu của tập thơ. Hãy nghe Mai thủ thỉ với mẹ: “Con vẫn làm thơ tặng người xưa / Nhưng không có bài nào cho mẹ...” Hình bóng mẹ bao giờ cũng: “Mẹ cả đời lận đận với tụi con, với ba / Lận đận cả một thời con gái / Mẹ vẫn oằn mình lo chuyện áo cơm” (trang 14). Nhà thơ đi xa, và chợt thèm “mấy món ăn mẹ nấu” một tình yêu đơn giản nhưng cũng đầy cá tính khi trái tim luôn ấp ủ hình bóng mẹ! Có lẽ cũng từ mạch nguồn này, mà đối với Dani, đứa con trai của thi sĩ, Như Mai đã tha thiết: “Khi con chào đời / mẹ con mình vụng về như nhau / ông trời quên gửi lời hướng dẫn / xin lỗi con mẹ cố hết sức mình” (Dani, trang 15), cũng là bóng dáng người mẹ tảo tần ở một cung bậc khác đó thôi! Và đây là hạnh phúc: “Dani boy Dani boy Dani boy/ tuổi mười lăm dấu yêu / mẹ con ta những viên đá cuội / dưới đáy hồ lách tách vui reo” (trang 16). Riêng với “Ông tôi”, cái tình và sự kính yêu đã trở thành những vần thơ hồn hậu: “Những con đường Đà Lạt / Thơm lừng hoa màu nhớ / Mỗi chiếc lá non tơ / Tuổi thơ ông hồi sinh từ chồi biếc...” và đó là niềm tin yêu: “Đi mải miết về phía bên kia địa cầu / Mỗi khi lòng đượm ưu tư / Tôi dõi mắt về hành tinh ông / Nghe lòng mình thảnh thơi như hạt sương chiếc lá / Bởi ông là cây cao bóng cả / Tỏa ánh sáng cuộc đời” (trang 18). Những tình cảm đơn sơ, thuần khiết, làm nên một tình bạn đẹp, phải chăng cũng như một mối tình: “Chiều đẫm buồn như cánh cửa khép / khi người bạn gái ngoảnh mặt bỏ đi...” (trang 19), để rồi: “Bạn cứ khóc cho niềm đau gột rửa” và “Bạn về tung tăng chải tóc soi gương / Vuốt nếp nhăn đa đoan bên khóe mắt / Mộng mơ một thời cuốn lại chân mây” (trang 22). Bạn cũng chính là chân dung tự họa của tác giả để cho tất cả đều “tình đầy trong nhau”?
    Ngôn từ giản dị, không đa nghĩa, hình ảnh có khi “nóng” song vẫn rất thật và cũng dễ thương, nữ tính, có lẽ nhà thơ vốn là một dịch giả, nên không cần cầu kỳ, bí hiểm trong câu chữ? Song thi sĩ cũng cần một chút “Thiền” thời thượng, khi viết “Hạnh thiền” Người đã đến cõi trần vội vã / Trả và vay một kiếp phiêu bồng/ Người ra đi màu xanh của lá / Lịm ngát chiều buốt phía hư không” (trang 35). Hay “Ước gì trái đất quay ngược lại / Chúng mình tái sinh / tan ngã. Hạnh Thiền!” (trang 36), có gì đó hơi xa với những câu thơ rất đời thường, dân dã: “Thôn mình vào mùa gặt hái tinh tươm / nụ cười anh đượm vàng em đồng lúa / én lượn mênh mang trẻ con ca múa / làng quê rưng rưng tình biếc nảy chồi” (Làng quê, trang 142).
    114 bài thơ, với nhiều cung bậc khác nhau, đằm đẵm nữ tính và cũng rất giản dị về cuộc sống, trong một chữ Tình tìm kiếm về quê hương, về nơi trú ngụ và cả đời thường, tuy nhiên, người đọc đôi lúc vẫn bắt gặp những “trùng lắp”trong cảm xúc, diễn đạt, nên chăng cũng cần chọn lọc và sắp đặt lại trong những lần tái bản sau. Bởi Hans Sachs, một nhà thơ, nhà soạn kịch người Đức đã phát biểu: “Tất cả cảm hứng thi ca đều chỉ là giải mã những giấc mơ”. Thi sĩ đã “Ngậm giấc mơ”để mong “Đêm ngắn, tình đầy”, thì không ai... ngậm những giấc mơ chưa... đầy.
 

– Trn Hoàng Vy

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong trang đầu tiên của Thuyền, tiểu thuyết, tác giả Nguyễn Đức Tùng viết:“Cả Sài Gòn, cả nước, xem bói. Thời trước, người ta xem để hỏi ngày lành tháng tốt, tiền tài, hạnh phúc lứa đôi, nhưng năm ấy, mọi người hỏi: có đi được không?” Đi hay ở, đó là vấn đề. Chả là vào thời đó, “Nếu cái cột đèn biết đi thì cũng phải đi.” Nhận xét đơn giản này, không rõ do ai thốt lên, đã lập tức trở thành phát ngôn thời danh, mô tả khá hình tượng cho một chương bi thảm trong lịch sử dân tộc, nối tiếp ngay sau một chương bi thảm khác là chiến tranh. Chương đó bắt đầu từ trong bối cảnh “Ngày tôi ngoài hai mươi tuổi, đó là những năm tháng u ám nhất của đời người, đó là những ngày yêu đương tràn ngập, mặt trời lên mỗi sáng, chiếu rọi mặt đất. Nhìn đâu cũng thấy tương lai. Đó là những ngày buồn bã, đói, thất vọng. Chúng tôi có tất cả, chúng tôi không có gì. Đó là những ngày kỳ lạ khi chiến tranh chấm dứt mà không chấm dứt, hòa bình lo âu.”
New Book Release: This book is a translation of a collection of personal, literary, and journalistic vignettes of Vietnamese individuals who have made notable contributions to literature, art, and science. It is a rich source of information on the social, cultural, and political history of South Vietnam, as well as the individual careers of its human subjects...
Làm thơ là một hành trình, với nhiều người, có khi rất là tình cờ bất chợt như làn gió mát buổi sớm chúng ta gặp mà không hề mong đợi. Thơ của chị Lê Phương Châu có phong cách như thế, khi thơ đọc như là những dòng chữ tình cờ, nơi đây chị có vẻ như không cố ý tìm chữ, tất cả chỉ là tự nhiên như ca dao. Trên từng dòng chữ, chị hiện ra như các hơi thở của tỉnh thức, để tự quán sát đời mình tan rã từng ngày, từng giờ, từng khoảnh khắc trong dòng sông vô thường. Và từ đó, thơ của chị khởi dậy trên các trang giấy.
Trong những năm gần đây, các thư viện công tại Hoa Kỳ – vốn từng là không gian yên tĩnh dành cho học tập và tra cứu – đã trở thành điểm nóng trong các cuộc tranh chấp văn hóa. Hàng ngàn cuốn sách bị yêu cầu cấm lưu hành, không phải bởi độc giả trực tiếp, mà từ các nhóm chính trị cánh hữu sử dụng mạng xã hội để vận động phản đối hàng loạt. Riêng năm học 2023–2024, PEN America ghi nhận tới 10.046 lượt cấm sách ở các trường công, ảnh hưởng tới 4.231 tựa sách và 2.662 tác giả; trong đó Florida và Iowa chiếm lần lượt 4.561 và 3.671 lượt cấm trong năm học. Gần một nửa trong số đó là sách viết bởi các tác giả LGBTQIA+ hoặc thuộc các cộng đồng chủng tộc thiểu số – những tiếng nói vốn đã bị thiệt thòi trong ngành xuất bản, nay tiếp tục bị đẩy ra ngoài bằng nhãn “không phù hợp.”
Cũng tâm thái ấy, tôi có được khi đọc Phòng Triển Lãm Mùa Đông của nhà văn Đặng Thơ Thơ, và sau đó là xoay sở cho lọt vào những con chữ mang đầy ý nghĩa bức phá hiện thực...
Nguyễn Hữu Liêm là một người đa dạng, không chỉ trong nghề nghiệp mưu sinh, mà cả trong những lĩnh vực cầm bút, lý luận. Ông là một người gây tranh cãi trong những nhận định về cộng đồng, và cả trong những bài viết về rất nhiều đề tài, như văn hoa, triết học, tôn giáo, chính trị. Dĩ nhiên, sôi nổi nhất là lĩnh vực chính trị. Nguyễn Hữu Liêm mưu sinh với nghề Luật sư, giảng dạy Triết. Những bài viết của ông bất kể gây tranh luận thế nào trong cộng đồng, vẫn là những đề tài cần được cộng đồng suy nghĩ nghiêm túc. Do vậy, từ một bàn viết lặng lẽ ở San Jose, Nguyễn Hữu Liêm trở thành người khơi dậy những cuộc tranh luận không chỉ ở hải ngoại, mà còn cả trong Việt Nam.
Đặng Thơ Thơ cùng thế hệ với ông bác, em ruột mẹ tôi, sống trong thời Việt Nam Cộng hòa và cũng như ông bác tôi, Thơ Thơ xa xứ cùng gia đình, người bác theo ngành y còn chị ngành giáo dục, viết văn, sáng lập trang Da Màu như cách để giữ gìn bản sắc và ngôn ngữ Việt. Xa quê mới nhớ nhà, rời nhau mới ngẩn ngơ căn nhà cắt rốn, sợ mất tiếng mất giọng, ngôn ngữ bay tro nên việc người Việt tha hương lập ra các trang Văn Hải Ngoại là cách đại đoàn kết khỏi cảnh nhớ nhà, đồng thời đấy cũng là sân chơi, thư viện lưu trữ bản thảo, để người trẻ muốn tìm tòi giai đoạn 20 năm miền Nam, muốn thử sức mà không cần phải trình bày thành tích đăng báo, in sách chung sách riêng đều có thể liên lạc.
Không ai ngờ nhà thơ này làm được các bài thơ kể chuyện về các Thiền sư Việt Nam trong thể thơ Đường luật, y hệt như khai mở lại một mạch nguồn thi ca sinh động. Những bài thơ của thầy, tinh luyện từng chữ, dịu dàng mang hơi thở Thiền Tông Việt Nam. Tôi đọc và kinh ngạc, như gặp lại một tri kỷ những năm rất xưa cũ, nhưng với một chân trời thi ca hoàn toàn mới. Nơi đó, riêng một mình Thầy Thích Chúc Hiền bước đi đơn độc, trong văn phong thanh thản, giữa những như dường gian nan trong từng chữ, từng ý đối, từng vần trau chuốt khó gieo, và trong từng âm vang Thiền ngữ. Tôi đọc và cảm nhận từng trang thơ đầy những tràn ngập hạnh phúc, hẳn nhiên là cho cả thi sĩ Thích Chúc Hiền và cho cả những độc giả khó tính như tôi. Từ thầy, tôi nhận ra rằng thơ Đường luật không hề cũ, chỉ là vì mình đã tránh né một lối đi rất khó khăn của thi ca.
THUYỀN là cuốn tiểu thuyết của nhà thơ Nguyễn Đức Tùng. Tác phẩm thuật lại chuyến vượt biên bằng đường biển của một nhóm người khi phong trào vượt biên trong nước lên cao, vào khoảng giữa hai thập niên 70s và 80s. Vì là tiểu thuyết nên cuốn sách thoát xác ra khỏi dạng hồi ký (mặc dù tự sự của nó bám sát sự thật và những điều có thể xem như sự thật) và nhất là nhờ được viết với bút pháp “dòng ý thức” nên nó đồng thời bật mở những suy nghiệm về lịch sử, chiến tranh, quê hương, tình yêu, sự sống, sự chết, sự tàn bạo, lòng nhân đạo, ký ức, lòng khao khát được sống, dòng chảy thời gian, cái nhẹ của nhân sinh, và nhiều thứ khác...
Tôi kinh ngạc khi thấy mình có thể sống trong rất nhiều thế giới trong một ngày. Bật máy vi tính lên, tìm các bản tin thế giới và quê nhà qua Google, chọn tin và dịch. Từ những xúc động có khi rơi nước mắt khi đọc tin về nỗi đau đớn của những người đang sống dưới mưa bom như Palestine, Ukraine, cho tới nỗi lo lắng khi thấy các bản tin về Biển Đông và đói kém ở quê nhà, cho tới những sân si trong thế giới quyền lực ở Hoa Kỳ... Thời gian nghỉ tay, đọc những dòng thơ nơi này hay nơi kia, từ khắp thế giới, là hạnh phúc đời thường của tôi. Trong đó, tôi thường theo dõi những dòng chữ của nhà thơ Thiện Trí, người cũng là một thiền sư đang dạy Thiền thực nghiệm ở Nam California. Có khi tôi mở bản sách giấy ra xem, và có khi vào Facebook tìm đọc "Monk Thiện Trí."
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.