Hôm nay,  

Những câu chuyện về Lễ Tạ Ơn và lịch sử định cư của Hoa Kỳ trên vùng đất bản địa

24/11/202300:00:00(Xem: 2562)
1
Ngày Lễ Tạ Ơn được tổng thống Lincoln ấn định có mối tương quan phần nào với việc tàu Mayflower neo đậu tại Cape Cod, xảy ra vào ngày 21 tháng 11 năm 1620.

Sách giáo khoa Hoa Kỳ thuật lại câu chuyện về những nhà phiêu lưu thám hiểm châu Âu thành lập các thuộc địa ở “Tân Thế giới” và những câu chuyện về “Lễ tạ ơn đầu tiên” thường miêu tả những người thực dân và những người Mỹ bản địa đang cùng nhau ăn uống chan hòa hạnh phúc. Sách vở ghi chép cuộc chiến giành độc lập của các thuộc địa là một chiến thắng chính đáng. Việc loại bỏ người Mỹ bản địa có thể được nhắc đến như một chú thích đáng buồn, nhưng chiến thắng của tinh thần tiên phong chiếm vị trí trung tâm khiến những chi tiết khác lu mờ.
 
Là một học giả chuyên nghiên cứu về người Mỹ bản địa, Lisa Michelle King, giáo sư Anh Ngữ tại Đại Học Tennessee cho rằng câu chuyện hời hợt này che giấu sự thật về điều mà nhiều nhà sử học và nhà hoạt động gọi là “chủ nghĩa thực dân của người định cư”. Nhà sử học Lorenzo Veracini khẳng định rằng hoạt động thuộc địa không chỉ là việc một quốc gia cử các nhà thám hiểm đi đến xứ sở mở khai thác và mang về tài nguyên, hay điều mà các học giả gọi là “chủ nghĩa thực dân cổ điển”, mà còn là những gì sẽ xảy ra khi một dân tộc mới chuyển đến và cố gắng tự khẳng định mình là cộng đồng “ưu việt” có văn hóa, ngôn ngữ và các quyền đối với tài nguyên và đất đai thay thế những quyền của người Bản địa đã sống ở đó.
 
Khi lịch sử, văn hóa và chính trị Hoa Kỳ được hiểu qua lăng kính của chủ nghĩa thực dân định cư, sẽ dễ hiểu hơn, như nhà sử học Patrick Wolfe đã viết, “những người thực dân định cư đến ở lại một vùng đất mới: cuộc xâm chiếm của họ trở thành một hệ thống, một cấu trúc, không phải một sự kiện”.
 
Các chính Sách của Hoa Kỳ và tại sao các chính sách này quan trọng

Mặc dù các chính sách thuộc địa của người định cư có thể bao gồm tội diệt chủng nhưng chúng có nhiều hình thức.

Các hiệp ước dối trá và các điều khoản không được giữ đúng đã buộc các quốc gia bộ tộc người Mỹ bản địa phải từ bỏ phần lớn quê hương của họ. Ví dụ, ở phía đông Tennessee, Hiệp ước Holston, được ký năm 1791, về mặt lý thuyết được đưa ra nhằm giúp thiết lập ranh giới rõ ràng giữa Cherokee và cộng đồng người định cư. Chính phủ Hoa Kỳ sẽ nhận được đất và đổi lại người Cherokee sẽ nhận được các khoản thanh toán hàng năm, hàng hóa và lời hứa bảo vệ của chính phủ. Thay vào đó, những người định cư chuyển đến chiếm đất của người Cherokee và chính phủ Mỹ không can thiệp. Đến năm 1798, Hiệp ước Tellico đầu tiên buộc người Cherokee phải từ bỏ đất đai mà những người định cư đã chiếm giữ trái phép, cùng với một số đất đai khác. Năm này qua năm khác, người Cherokee và các bộ lạc khác bị đẩy ra ngoài lãnh thổ của họ.
 
Hoa Kỳ Chiếm Hữu Đất Đai Bằng Cách Nào

2
 
Đạo Luật Buộc Dời Bỏ Hoàn Toàn ngoài các hiệp ước càng khiến các quốc gia người Mỹ bản địa bị tước đoạt đất đai của họ và bị xóa sổ. Thay vì ủng hộ bất kỳ hình thức chung sống nào, đạo luật như Đạo Luật Loại Bỏ Người Da Đỏ năm 1830 kêu gọi loại bỏ hoàn toàn tất cả các bộ lạc ở phía đông sông Mississippi. 
Sự thật thì lịch sử không bắt đầu chỉ khi người châu Âu đặt chân đến Bắc Mỹ. Và sự xuất hiện của Mayflower cũng không phải là lần đầu tiên người bản xứ tiếp xúc với người tây phương. Người Wampanoags đã có những quan hệ đẫm máu và liên quan đến việc người châu Âu đánh phá bắt nô lệ từ bao năm trước đó.

Mặc dù người Cherokee và những bộ tộc khác ra tòa đấu tranh chống các luật như vậy, nhưng kết quả sau cùng là 100.000 người bản địa ở miền đông Hoa Kỳ phải di dời trong khoảng thời gian từ 1830 đến 1850 dẫn đến cái chết của hàng ngàn người Cherokee, Choctaw, Chickasaw, Muscogee và Seminole trên Đường Mòn Nước Mắt.

Các hệ thống nhận dạng lượng tử máu đã cố gắng làm cho người Mỹ bản địa “biến mất” bằng cách xác định danh tính người Mỹ bản địa thông qua việc đếm một phần nhỏ “máu Bản Xứ” và khuyến khích kết hôn với những người không phải người bản địa. Khi đã đạt đến một mức độ hôn nhân khác giới nhất định, một người không còn được coi là người bản địa nữa và không đủ điều kiện để đăng ký vào bộ lạc.

Cùng với những chính sách này, giáo dục còn được sử dụng như một công cụ để xóa bỏ ngôn ngữ và văn hóa của người Mỹ bản địa bằng cách ép bức tách rời trẻ em bản địa khỏi gia đình của chúng và cấm chúng nói ngôn ngữ hoặc thực hành văn hóa của họ. Là người sáng lập trường nội trú đầu tiên, Trường Carlisle Indian Industrial School, Richard Henry Pratt nổi tiếng với lập luận “Giết người da đỏ, là cứu người”. Việc lạm dụng học sinh không phải là hiếm. Nhiều người sống sót ở trường nội trú đã trải qua nỗi đau mất mọi nối kết với gia đình và nền văn hóa của họ, một nỗi đau vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.

Các chính sách di dời và giải tán của Hoa Kỳ trong thế kỷ 20 còn cố gắng miễn trừ trách nhiệm theo hiệp ước của chính phủ liên bang đối với các quốc gia bản địa. Nếu chính phủ Hoa Kỳ có thể “chấm dứt” các quốc gia bộ lạc bằng cách giải tán họ và các quốc gia bộ tộc, thì mọi nghĩa vụ đối với các bộ lạc sẽ biến mất về mặt pháp lý và tất cả đất đai của bộ lạc còn lại sẽ trở lại quyền sở hữu của chính phủ.

Sau khi Nghị quyết 108 của Hạ viện được thông qua vào năm 1953, hơn 100 bộ lạc và 13.000 người bản địa đã bị chấm dứt các hợp đồng và hơn 1 triệu mẫu đất bị chiếm mất. Các chính sách khác của liên bang như Đạo luật Tái định cư Người Da đỏ năm 1956 đã khuyến khích các thành viên bộ lạc vĩnh viễn rời khỏi các khu đất bảo tồn và chuyển đến các thành phố để tìm việc làm và do đó hòa nhập vào xã hội Hoa Kỳ.

Nhìn chung, các chính sách này chưa được thực hiện đầy đủ và nhiều quốc gia bộ lạc kêu gọi việc tái khôi phục địa vị của họ. Tuy nhiên, thiệt hại thực sự đã gây ra cho các quốc gia bộ lạc phải chịu sự giải tán và các thành viên bộ lạc tái định cư phải đối mặt với sự phân biệt đối xử và mất kết nối với nhau.

Giảm thiểu tác hại

Dĩ nhiên rằng không thể đơn giản hủy bỏ tất cả các chính sách này và tác động của chúng. Tuy nhiên, các học giả như Eve Tuck và K. Wayne Yang cho rằng việc thách thức những chính sách đó và nỗ lực giảm bớt ảnh hưởng của chúng, được gọi là giảm thiểu tác hại của người đến đây định cư, là bước đầu tiên hướng tới sự thay đổi. Nhưng để thay đổi xảy ra, những người được hưởng lợi từ hệ thống thuộc địa của người định cư - dù là người định cư ban đầu hay bất kỳ ai ngày nay được hưởng lợi từ các chính sách này - cần phải hợp tác với các quốc gia và cộng đồng người Mỹ bản địa để tìm ra những cách tích cực để cải thiện.

Điểm khởi đầu là xác định những câu chuyện hiện vẫn còn lưu hành ở Hoa Kỳ về người Mỹ bản địa và tìm cách thay đổi những giả định thuộc địa của người định cư vẫn cố ý xóa sổ gốc gác người Mỹ bản địa. Với Lễ Tạ ơn cận kề, việc truyền dạy câu chuyện Lễ Tạ Ơn cùng với những gốc tích về các bộ tộc Wampanoag ngày nay là điều chúng ta có thể bắt đầu.

Quá khứ không thể xóa bỏ nhưng nó không nhất thiết phải quyết định tương lai.
Việt Báo biên dịch

Nguồn: Bài gốc của Lisa Michelle King trên The Conversation (https://theconversation.com/thanksgiving-stories-gloss-over-the-history-of-us-settlement-on-native-lands-213517)
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở Hoa Kỳ, khi nghe đến cụm từ “giáo dục tổng quát,” người ta thường hình dung về những khóa học nhập môn trong các lĩnh vực nghệ thuật, nhân văn, khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và toán học. Tùy vào mỗi trường, chương trình này có thể mang những cái tên khác nhau như “chương trình căn bản” (core curriculum) hay “các môn học bắt buộc” (distribution requirements). Ngoài ra, chương trình này đôi khi còn có một tên gọi khác là “giáo dục khai phóng” (liberal education). Hội các trường Cao đẳng và Đại học Hoa Kỳ (American Association of Colleges and Universities, AACU) mô tả đây là chương trình giúp bồi dưỡng “tinh thần trách nhiệm xã hội, cùng với các kỹ năng trí tuệ và thực tiễn vững vàng có thể vận dụng linh hoạt.”
Trong nhiều năm kể từ khi Jeffrey Epstein được phát hiện chết trong phòng giam tại Metropolitan Correctional Center (MCC), New York, giới chức liên bang luôn khẳng định rằng cái chết này là một vụ tự sát. Tuy nhiên, một cuộc điều tra độc lập do CBS News thực hiện đã phơi bày hàng loạt mâu thuẫn giữa các tuyên bố của chính phủ và những gì thực sự hiện ra trong đoạn phim giám sát vừa được công bố.
Cuối mùa Hè năm 1955, Till-Mobley tiễn con trai của bà, Emmett Till 14 tuổi lên một chuyến tàu từ Chicago đến thăm chú và các anh em họ của Emmett ở quê hương Mississippi của bà. Giống như những phụ nữ và đàn ông da đen nói với con cái họ về việc chú ý các điểm dừng giao thông và các cuộc chạm trán khác với cảnh sát, Till-Mobley đã căn dặn Emmett rất kỹ. Bà cho cậu biết cậu đang đi đến một nơi mà an toàn phụ thuộc vào khả năng kiềm chế sự bốc đồng, tính cách không khuất phục của cậu với người da trắng. Linh cảm của người mẹ mang đến trong lòng bà nỗi bất an không giải thích được. Bà đưa cho Emmett chiếc nhẫn bạc của ông Louis Till, cha của cậu. Chiếc nhẫn khắc chữ L.T.
“Đi về Miền Nam, miền hương thơm bông lúa tràn ngập đầy đồng; Đi về Miền Nam, miền xinh tươi đất rộng cùng chung nguồn sống” Và cứ như thế, với tiếng hát trong tâm tưởng, từng đoàn người gồng gánh ra đi. Họ đi về hướng Nam giống như cha ông của mình từ bao nhiêu thế kỷ trước. Bây giờ lại còn một động lực mới và mãnh liệt khác, đó là đi tìm tự do: ‘chúng tôi muốn sống!’, như tên gọi một cuốn phim nổi tiếng của đồng bào di cư sau này. Cuối tháng 6, dù hiệp định đình chiến chưa ký kết nhưng quân đội Pháp và Quốc gia đã rút lui khỏi nhiều địa điểm ở đồng bằng Bắc Việt nên nhiều người bắt đầu di tản về các đô thị, đặc biệt là Hải phòng.
Cõi này ngày càng bất an! Tình trạng hâm nóng toàn cầu đã dẫn tới nhiều thảm họa như bão lụt, hạn hán, mực nước biển dâng cao, dịch bệnh, mất mùa, đói khát lầm than. Chiến tranh thù hận ngày càng hung bạo đã làm cho hàng triệu người thương vong, nhà cửa ruộng vườn bị phá hoại. Các chế độ độc tài, quân phiệt, và nạn kỳ thị sắc tộc đã thẳng tay đàn áp dân lành. Tất cả những điều trên đã dẫn đến thảm trạng bỏ nước đi của hàng triệu người trên thế giới! Theo Population Division of the United Nations Department of Economic and Social Affairs (UNDESA), năm 2024 có tới 304 triệu di dân trên toàn cầu, là một con số tăng gần gấp đôi kể từ năm 1990, khi lúc đó có 154 triệu di dân trên thế giới. Đó là 3.7% tổng dân số địa cầu. Theo Cơ Quan Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, tính tới cuối năm 2024, có 43.7 triệu người tị nạn, gồm 6 triệu người tị nạn từ Palestine và 8 triệu người xin được nhận vào quy chế tị nạn trên toàn cầu.
Trong số người Việt, thế hệ thứ nhất có 29% học xong cử nhân hay cao hơn. Thế hệ sinh ra lớn lên tại Hoa Kỳ con số này là 59%. Như thế có thể lý giải là phụ huynh không có cơ hội học cao nhưng khuyến khích con theo đuổi đường học vấn cho tương lai.
Khi các chuyên gia quan ngại về mối quan hệ của giới trẻ với thông tin trực tuyến, họ thường cho rằng giới trẻ tuổi không hiểu biết về phương tiện truyền thông như những người lớn tuổi hơn. Nhưng công trình nghiên cứu dân tộc học do Jigsaw – cơ sở công nghệ của Google - thực hiện lại tiết lộ một thực tế phức tạp và tinh tế hơn: Thế hệ Z, thường được hiểu là những người sinh sau năm 1997 và trước năm 2012, đã phát triển các chiến lược khác biệt rõ rệt để đánh giá thông tin trực tuyến, những chiến lược sẽ khiến bất kỳ ai trên 30 tuổi trở nên bối rối. Họ không tiếp thu thông tin như những người lớn tuổi hơn bằng cách đầu tiên đọc tiêu đề và sau đó là nội dung.
Người Việt Nam không ai xa lạ với từ ‘Gulag’ - trại tù lao động khổ sai khét tiếng của Liên Bang Xô Viết. Ước tính trong khoảng hai thập niên từ 1930-1953, nơi đây giam giữ khoảng 4 triệu tù nhân; 1.5 triệu đã chết trong tù hay sau khi được thả một thời gian ngắn. Gulag từng được xem là địa ngục trần gian, là biểu tượng cho sự tàn bạo của nhà tù cộng sản. Trong những ngày cuối tháng 6, khi mà người dân Mỹ chuẩn bị pháo hoa đón mừng Lễ Độc Lập, cái tên Gulag được sử dụng khi nói đến một nhà tù mới được hình thành ở Florida. Nhà tù này có tên gọi là Alligator Alcatraz. Trong một bài viết được đăng trên trang mạng Amrican Community Media ngày 30/06/2025, nhà báo Laszlo Bartus đã cảnh báo rằng nó sẽ là nhà tù vô nhân đạo nhất thế giới.
Trong hơn bảy mươi năm qua, quan hệ giữa Hoa Kỳ và Iran đã trải qua nhiều bước ngoặt – từ một liên minh chiến lược thời Chiến tranh Lạnh, đến một trong những nước đối đầu gay gắt và kéo dài nhất của thời đại hậu thuộc địa. Bản tóm lược dưới đây ghi lại những cột mốc chính từ năm 1953 đến 2025, nhằm cung cấp một cái nhìn toàn diện về diễn biến phức tạp của quan hệ Hoa Kỳ–Iran trong bối cảnh biến động địa chính trị toàn cầu.
Tháng 5 vừa qua, một chuyến bay từ Johannesburg, Nam Phi đã đáp xuống phi trường Quốc tế Dulles, Hoa Kỳ. Trên phi cơ là khoảng 50 công dân Nam Phi da trắng thuộc cộng đồng Afrikaner. Những người này cho biết sinh kế của họ đang bị đe dọa nghiêm trọng do xã hội ngày càng “kỳ thị người da trắng.” Cách mô tả tình hình Nam Phi như vậy ngay lập tức nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ từ các nhà bình luận cánh hữu có ảnh hưởng ở Mỹ như Tucker Carlson, Charlie Kirk, và Stephen Miller.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.