Hôm nay,  

Mùa cuối năm...

04/12/202308:30:00(Xem: 2650)
Tạp ghi

autumn leave

Mùa lễ cuối năm ở Mỹ là mùa sum vầy, ai rồi cũng nhớ nhà, người thân vào mùa lễ cuối năm đã về, ai cũng muốn trở về, gặp lại người xưa chốn cũ nên gọi là mùa sum vầy cũng không có gì là quá đáng, nhưng không phải ai cũng có một nơi để về trong trời đất bao la chỗ đến, nhưng về đâu là câu hỏi muôn đời của kiếp nhân sinh.
    Cuối năm, ngồi nghe những tàn phai từ tiếng lá rơi bên thềm, con chim lạc đường bay trong trời tối sớm thống thiết tiếng kêu. Những sự ra đi cuối tháng mười một năm nay cũng không khác gì những sự ra đi cuối tháng mười một năm ngoái, năm trước nữa vì trong sự sum vầy nào cũng sẵn mầm ra đi. Nhưng có những sự ra đi làm người ta tiếc nuối như hôm 24 tháng 11, truyền thông đưa tin thầy Tuệ Sỹ viên tịch lan truyền trên mạng. Sau phút bàng hoàng tiếp nhận hung tin về sự ra đi của người tôi kính ngưỡng từ khi còn đi học. Nhưng bình tĩnh lại tôi thấy mừng cho “cọng lau gầy trĩu nặng bóng tà dương” đã được giải thoát. Chẳng phải thầy đã sống một đời như cọng lau gầy trĩu nặng bóng tà dương với thân thế người ở lại trong bàn tay bạo chúa, trong bối cảnh lịch sử đất nước chiến tranh tàn khốc nhưng hoà bình mù loà, mù loà tới tuyên án tử hình cho thầy thì không có sự mù loà nào hơn cho nhà cầm quyền bên thắng cuộc.
    Chúc thầy thượng lộ bình an, kẻ hậu bối được tiếp kiến thầy đôi lần trong cõi ta bà Sài gòn sau miền nam thất thủ chỉ là tên học trò không sách vở cầm tay nhưng có duyên với những tiền bối vang danh một thời. Nhờ đạp xe chở ông cố nội Bùi Giáng về chùa Già Lam mà thành cơ duyên được bái kiến thầy Tuệ Sỹ. Tôi đọc rất nhiều những thi văn của thầy bởi lòng kính trọng sự uyên bác và nhân cách cọng lau gầy trong bàn tay bạo chúa của thầy. Tôi cảm thấy trên mặt đất chúng ta hằng sống có một thế giới khác là thế giới của những người uyên bác. Họ không quan tâm đến những gì người thường chúng ta quan tâm, họ không có nhu cầu đời sống vì họ không sống với những nhu cầu như người thường. Hèn gì giáo sư Phạm Công Thiện từng viết trong tác phẩm “nẻo về của ý” của ông có câu, “tập sống với những gì không có, tập làm quen với những vết hoen ố trên tường…” Có lẽ ông đã sống như thế nên mới hiểu được văn thơ, chữ nghĩa, tinh thần, nhân cách… của thầy Tuệ Sỹ.
    Tạ ơn cả hai tiền bối đã khai thị, khai trí cho vãn sanh, hậu bối.
    Tiếp theo là lời phân ưu của Đức Đạt Lai Lạt Ma với người Việt Nam về sự ra đi, viên tịch của thầy Tuệ Sỹ. Nhìn ảnh Đức Đạt Lai Lạt Ma ôm di ảnh thầy Tuệ Sỹ áp vào ngực ngài là minh chứng cho thầy Tuệ Sỹ khi sinh ra chỉ mình thầy khóc còn mọi người cười, nhưng khi thầy mất đi, thầy viên tịch thì chỉ mình thầy cười còn mọi người khóc. Cuộc đời thầy viết nên trang sử đặc biệt trong lịch sử nước nhà, bất chấp quan điểm nhất thời vì dân mới là vạn đại.
    Cùng đọc lại bài thơ “tôi vẫn đợi” như nén hương lòng tưởng nhớ Trưởng lão Hoà thượng Tuệ Sỹ vừa viên tịch ở quê nhà…
 
Tôi vẫn đợi những đêm dài khắc khoải
Màu xanh xao trong tiếng khóc ven rừng
Trong bóng tối hận thù, tha thiết mãi
Một vì sao bên khoé miệng rưng rưng
Tôi vẫn đợi những đêm đen lặng gió
Màu đen tuyền ánh mắt tự ngàn xưa
Nhìn hun hút cho dài thêm lịch sử
Dài con sông tràn máu lệ quê cha
Tôi vẫn đợi suốt đời quên sóng vỗ
Quên những người xuôi ngược Thái Bình Dương
Người ở lại giữa lòng tay bạo chúa
Cọng lau gầy trĩu nặng ánh tà dương
Rồi trước mắt ngục tù thân bé bỏng
Ngón tay nào gõ nhịp xuống tường rêu
Rồi nhắm mắt ta đi vào cõi mộng
Như sương mai, như ánh chớp, mây chiều
(Sài gòn 78)
Nguồn: Tuệ Sỹ, Giấc mơ Trường Sơn, An Tiêm xuất bản, California, 2002.
 
Tháng mười một sum vầy trong sẵn mầm chia xa, ngày 28 tháng 11 năm nay. Một cây cổ thụ trong giới tinh hoa Việt nam cũng vừa bật gốc. Nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn đã ra đi êm đềm như em đến thăm anh đêm ba mươi/ còn đêm nào đẹp bằng đêm ba mươi/ anh nói với người phu quét đường/ xin chiếc lá vàng làm bằng chứng yêu em… Mấy câu thơ, lời nhạc trích là ông, ông là mấy câu thơ, lời nhạc trích bất hủ đó. Trùng trùng kỷ niệm về ông qua những lần ông về Dallas để làm những đêm đọc thơ và nghe nhạc Nguyễn Đình Toàn. Một tiền bối khiêm tốn, bình dị nhưng đi vào lòng người như giọng đọc của ông trên đài phát thanh xưa, như quan tâm của ông tới bằng hữu đồng đạo và hậu bối ngưỡng mộ ông.
    Ông đi rồi nhưng hương thơm ly cà phê sáng, vị tô bún bò huế ở Dallas được thưởng thức cùng ông đọng lại, còn mãi trong lòng ngưỡng mộ những cư dân thành Đà. Nhớ ông rất tâm đầu ý hợp với bác Hai Trầu (tức nhà văn Lương Thư Trung). Hai lão tiền bối gặp nhau là thiên thu truyền kỳ truyện. Hậu bối, vãn bối ngồi nghe thâu đêm ở nhà Đinh Yên Thảo thành Đà tới trăng lên trăng lặn trăng tà. Ông với nhà thơ ở cạnh nhà thờ Nguyễn Xuân Thiệp, nhà thơ Tô Thùy Yên khi gặp nhau cũng là tam hợp. Người đời sau hiểu ra, khám phá nhiều lịch sử không có trong sách giáo khoa.
    Tạ ơn ông đã để lại cho đời “áo mơ phai” bất hủ và bất tử, những lời thơ, lời nhạc trong sáng, nhẹ nhàng mà lắng đọng biết bao nhiêu đường trần ai có qua cầu mới hay. Nhưng cái hay của riêng ông là bình thản trước lịch sử, cường quyền, tù ngục… người nghệ sĩ có trái tim tha thứ để yêu thương cả những đáng ghét trong cuộc đời này.
    Buồn. không nói khác được với tin ông ra đi. Nhưng ông đã có một nơi để về từ khi còn sinh tiền là tấm lòng đại lượng, sự tinh tế của người làm nghệ thuật chân chính nên tạo nên được những tác phẩm văn học, thơ ca, âm nhạc tuyệt vời như một đóng góp vào văn minh nhân loại.
    Chúc ngài thượng lộ bình an tới nơi về là cõi vĩnh hằng, không ai bỏ tù người nghệ sĩ chân chính nữa. Mong sự tinh tế trong chữ nghĩa của ngài không thuộc hành lý mang đi cho chữ nghĩa đời sau bớt u ám như bây giờ.
    Tháng mười một kết thúc với sự ra đi của một nhân vật mang tầm lịch sử thế giới là cựu ngoại trưởng Hoa Kỳ Henry Kissinger. Đâu hồi hè, tôi thoáng thấy ông trên tivi, ngồi với ông Tập Cận Bình bên Trung Cộng. Hai điều không ngờ ập đến trong tôi. Ủa, ông ấy còn sống hả ta? Và, ông ấy còn đến Trung Cộng để làm gì? Nhưng không quan tâm nên tôi không xem chuyện gì đã và đang xảy ra với chuyến thăm Trung Cộng của ông Kissinger vào tháng bảy vừa qua.
     Hôm 29 tháng 11, truyền thông đưa tin ông Kissinger qua đời ở tuổi 100. Ông trở thành bằng chứng có sống thọ đến trăm tuổi thì cũng ra đi thôi. Nên vấn đề còn lại của đời người là những gì đã làm được khi sinh tiền. Ông không ngẫu nhiên trở thành cố vấn chính phủ Mỹ, Bộ trưởng bộ Ngoại giao Hoa kỳ thời tổng thống thứ 37 Richard Nixon. Nghĩa là ông có thực tài thì mới được đề cử vào hai chức vụ quan trọng ấy. Với thế giới, ông được công nhận là nhà ngoại giao số một thời bấy giờ sau công vụ kết nối với Trung cộng. Đọc lại lịch sử thế giới thời bấy giờ rõ là thế giới rơi vào thế chân vạc giữa Hoa kỳ, Liên Xô, Trung cộng. Ông đi đêm với thủ tướng Chu Ân Lai của Trung cộng lúc bấy giờ để thu xếp chuyến thăm đầu tiên của tổng thống Mỹ tới Bắc Kinh sau thế chiến II. Bức ảnh nồi tiếng trình làng trên mặt báo thế giới là hình ảnh ông Nixon cầm lon Coca-cola trên Vạn lý trường thành. (Chắc là ảnh thật vì thời đó chưa có photoshop).
    Ai rảnh cứ tìm đọc trên Google bây giờ có rất nhiều thông tin về nhân vật lịch sử thế giới này. Nhưng với riêng miền nam nước Việt thì ông là tên đồng minh phản bội. Ông bán đứng miền nam cho cộng sản bắc Việt, cho Trung cộng để đổi lấy những lợi ích của Hoa Kỳ bên Trung Đông, cụ thể ở Do Thái. Đó là lý do người Việt không ưa ông. Lý do Hoa Kỳ đưa ra là ông bắt tay với Trung Cộng để đối phó Nga trong thế tay ba mà Trung Cộng ngả về phe Hoa kỳ thì Liên Xô đơn độc. Lúc đó hai đánh một không chột cũng què…
    Thôi thì lịch sử thế giới còn biết bao nhiêu trang chưa được giải mật và biết bao nhiêu trang sẽ không bao giờ được giải mật. Chỉ biết một con người đi vào lịch sử thế giới với đánh giá chung là người lỗi lạc thì hẳn là ông tài giỏi. Với Việt Nam, ông có là người có tài nhưng không có đức là người vô dụng như sách giáo khoa tôi học hồi nhỏ thì ông cũng là Kissinger - người hùng của Hoa Kỳ, kỳ tài của ngành ngoại giao quốc tế. Cuộc đời ông khép lại như bao cuộc đời người khác, ông là vĩ nhân hay tội đồ phản bội đồng minh thì bàn cờ Việt Nam cũng đã ngã ngũ nửa thế kỷ qua rồi. Xin để ông cho lịch sử phán xét, tiểu nhân không muốn lạm bàn.

 

– phan

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.