Hôm nay,  

‘Quan Hệ Đặc Biệt’ Giữa Hoa Kỳ Và Israel Thật Sự Đặc Biệt Thế Nào?

08/12/202300:00:00(Xem: 4954)
 
Hoa ky va Israel
Quan hệ Hoa Kỳ-Israel bắt nguồn từ trước năm 1948, và là bối cảnh cho “mối quan hệ đặc biệt” giữa hai nước hiện nay. (Nguồn: pixabay.com)

Trong bài phát biểu đầu tiên sau khi Hamas tấn công vào Israel vào ngày 7 tháng 10 năm 2023, Tổng thống Joe Biden khẳng định sự hỗ trợ của Hoa Kỳ dành cho Israel là “vững chắc và không lung lay, giống như những gì chúng tôi đã và đang làm kể từ thời điểm Hoa Kỳ là quốc gia đầu tiên công nhận Israel, chỉ 11 phút sau khi quốc gia này thành lập, cách đây 75 năm.”
 
Israel đã tuyên bố quyết tâm tiêu diệt Hamas và phát động một cuộc chiến đẫm máu ở Gaza. Tính đến cuối tháng 11, đã có hơn 14,000 người Palestine thiệt mạng. Chiến tranh cũng đã phá hủy phần lớn Gaza và khiến khoảng 70% dân số ở đây phải sơ tán.
 
Israel, với sự hậu thuẫn của Hoa Kỳ, đã không mảy may chú ý đến lời kêu gọi ngừng bắn ngay lập tức hoặc yêu cầu của Liên Hiệp Quốc ngừng nhắm mục tiêu vào dân thường. Và chính quyền Biden đã đóng một vai trò quan trọng trong thỏa thuận ngừng bắn tạm thời cũng như trao đổi con tin và tù nhân giữa Israel và Hamas.
 
Mối quan hệ Hoa Kỳ-Israel bắt nguồn từ trước năm 1948, và là bối cảnh cho “mối quan hệ đặc biệt” giữa hai nước – giờ đây nó có tính quan trọng đối với việc Israel tiến hành cuộc chiến ở Gaza.
 
Trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh, ở Hoa Kỳ, người ta coi giá trị chiến lược của Israel là lý do để thiết lập mối quan hệ đặc biệt giữa 2 nước. Dù Israel cũng có những lợi ích riêng trong xung đột ở Trung Đông, Quốc hội Hoa Kỳ và các nhà vận động hành lang ở Mỹ đã xem chúng như những lợi ích nhất quán với lợi ích của Hoa Kỳ.
 
Kinh Thánh, Chủ nghĩa phục quốc Do Thái của Cơ đốc giáo (Christian Zionism), văn hóa đại chúng, việc tưởng niệm sự kiện Holocaust sau năm 1967 và cách tiếp cận chung giữa Hoa Kỳ và Israel đối với đất đai và dân bản xứ đã dẫn đến sự thay đổi vị thế của người Do Thái và người Israel từ “người ngoại đạo” thành “người trong cuộc” tại Hoa Kỳ.
 
Mối quan hệ văn hóa và chính trị này là nền tảng cho việc Hoa Kỳ hiện tại dành cho Israel sự ủng hộ vô điều kiện, cũng như việc Hoa Kỳ được coi là có liên quan sâu sắc đến các hành động của Israel trong và ngoài khu vực.
 
Tuy nhiên, kể từ khi Tổng thống Harry Truman công nhận Israel vào năm 1948, những chính sách qua các đời tổng thống đã cho thấy mối quan hệ Hoa Kỳ-Israel không phải lúc nào cũng “vững chắc và kiên định.”
 
Trước khi quốc gia Israel thành lập: Hoa Kỳ và chủ nghĩa phục quốc Do Thái
 
Với đa số người Ả Rập sinh sống trong hơn một thiên niên kỷ cho đến năm 1948, vùng lãnh thổ Palestine lúc đó đã là một phần của Đế quốc Ottoman từ năm 1517 cho đến khi bị Anh chiếm đóng trong Thế Chiến I.
 
Phong trào phục quốc Do Thái đã đạt được mục tiêu quan trọng vào tháng 11 năm 1917, khi Anh, vì lý do chiến lược và tôn giáo, ban hành Tuyên bố Balfour (Balfour Declaration) ủng hộ việc thiết lập một quốc gia quê hương cho người Do Thái tại Palestine. Tổng thống Hoa Kỳ Woodrow Wilson cũng tán thành cả tuyên bố này lẫn quyền kiểm soát của Anh đối với Palestine do League of Nations phê chuẩn.
 
Ở Palestine, Anh sử dụng “quyền ủy trị” của mình đối với Palestine để thúc đẩy dự án Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái (Zionist project). Vào năm 1942, sự trỗi dậy của Hitler và việc Hoa Kỳ tham gia Thế Chiến II đã khiến những người theo chủ nghĩa Phục quốc Do Thái ở Hoa Kỳ chấp nhận Chương trình Biltmore (Biltmore Program), kêu gọi người Do Thái nhập cư ồ ạt vào Palestine và biến lãnh thổ này thành một quốc gia Do Thái. Việc phanh phui toàn bộ tội ác của Đức Quốc Xã đã khiến Hoa Kỳ càng vững tâm ủng hộ Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái, và từ đây, trung tâm của Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái đã chuyển từ London sang Washington.
 
Năm 1944, Cương lĩnh của Đảng Dân Chủ ủng hộ “mở cửa Palestine cho người Do Thái nhập cư và định cư không hạn chế” cũng như việc thành lập một nhà nước Do Thái. Nhưng lo ngại những nỗ lực chiến tranh của Hoa Kỳ sẽ bị tổn hại, Tổng thống Franklin Roosevelt đã viết thư cho một số chính phủ Ả Rập ngay trước khi ông qua đời vào năm 1945, khẳng định sẽ không thực hiện bất kỳ hành động nào đối với Palestine mà “có thể gây thù địch với nhân dân Ả Rập.”
 
Israel, Hoa Kỳ và Chiến Tranh Lạnh
 
Tổng thống Harry Truman có thiện cảm với Chủ nghĩa Phục quốc Do Thái vì ông được nuôi dạy theo Kitô giáo. Ông tán thành Kế Hoạch Phân Chia Palestine (Partition Plan for Palestine) năm 1947 của Liên Hiệp Quốc nhằm thành lập một quốc gia Ả Rập và một quốc gia Do Thái, và bất chấp sự phản đối từ bên trong chính quyền, ông vẫn công nhận Quốc gia Israel vào ngày 14 tháng 5 năm 1948.
 
Tuy nhiên, Truman từ chối gửi vũ khí cho bất kỳ bên nào trong Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948, vì ông coi cuộc xung đột là một nguồn gốc của sự bất ổn trước mối đe dọa của cộng sản đang nổi lên. Trong cuộc chiến đó, 750,000 người Palestine đã chạy trốn hoặc bị trục xuất, trở thành dân tị nạn từ lãnh thổ sau này trở thành Israel.
 
Tổng thống Dwight Eisenhower cũng tìm cách ngăn Liên Xô ‘nhúng tay’ vào Trung Đông và cố gắng duy trì sự trung lập đối với xung đột Ả Rập-Israel. Ông thậm chí còn đe dọa cắt tất cả viện trợ chính thức và tư nhân, và trục xuất Israel khỏi Liên Hiệp Quốc để buộc Israel phải rút lui khỏi lãnh thổ Ai Cập, bán đảo Sinai, vào năm 1957.
 
Xung đột và mối quan hệ đặc biệt Hoa Kỳ-Israel
 
Tổng thống John F. Kennedy đặt ra thuật ngữ “mối quan hệ đặc biệt” để chỉ mối quan hệ giữa hai nước. Ông hy vọng rằng để đổi lấy vũ khí phòng thủ của Hoa Kỳ, Israel sẽ ủng hộ kế hoạch của ông, dựa trên Nghị quyết 194 của Liên Hiệp Quốc, kêu gọi hồi hương hoặc bồi thường cho người tị nạn Palestine cũng như cho phép kiểm tra hiệu quả chương trình hạt nhân của nước này. Israel chấp nhận vũ khí nhưng từ chối hợp tác trong các vấn đề khác, và chẳng có vấn đề nào được thảo luận lại.
 
Tổng thống Lyndon Johnson xem Israel như một tài sản chiến lược và gửi cho nước này những vũ khí tấn công tiên tiến. Johnson ủng hộ cuộc tấn công của Israel vào Ai Cập, Syria và Jordan trong cuộc chiến tháng 6 năm 1967, khi Israel lần đầu tiên chiếm đóng Bờ Tây và Dải Gaza. Johnson cũng tán thành Nghị quyết 242 của Liên Hiệp Quốc vào tháng 11 năm 1967, trong đó quy định Israel phải rút quân với điều kiện các quốc gia Ả Rập phải công nhận và ký kết các hiệp ước hòa bình với Israel. Chiến thắng nhanh chóng của Israel đã biến đổi mối quan hệ Hoa Kỳ-Israel, nâng Israel trở thành một yếu tố quan trọng trong bản sắc Do Thái ở Hoa Kỳ và củng cố các chính sách ủng hộ Israel ở Washington.
 
Tổng thống Richard Nixon đã tăng cường viện trợ kinh tế và quân sự cho Israel vì ông chấp nhận một cách mù quáng quan điểm của Israel rằng Liên Xô là nguyên nhân chính gây căng thẳng ở Trung Đông, và vì Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1973. Kể từ đó, các gói viện trợ hào phóng đã trở nên thường như ‘cơm bữa’: Trong những năm gần đây, viện trợ của Hoa Kỳ cho Israel vào khoảng 3 đến 4 tỷ MK hàng năm, tổng cộng gần 318 tỷ MK kể từ Thế Chiến II, bao gồm cả giá trị vũ khí.
 
Trong khi Tổng thống Jimmy Carter làm trung gian cho hiệp ước hòa bình giữa Ai Cập và Israel năm 1979, thì chính quyền Ronald Reagan sau đó đã rời bỏ tiến trình hòa bình tích cực và quay sang tập trung vào Liên Xô, ký kết với Israel bản cam kết về hợp tác chiến lược, nâng mối quan hệ lên một tầm chiến lược mới. Chính quyền Reagan ủng hộ cuộc xâm lược của Israel vào Lebanon năm 1982, từ chối coi các khu định cư ở Bờ Tây là bất hợp pháp, và chỉ định Israel là “một đồng minh lớn không thuộc NATO” vào năm 1987.
 
Tổng thống Bill Clinton đã làm trung gian cho Hiệp định Oslo, trong đó Israel đồng ý rút khỏi các khu vực ở Bờ Tây và Dải Gaza, đồng thời nhượng lại một số quyền kiểm soát cho một thực thể chính trị mới, Chính quyền Palestine. Nhưng Clinton đã không đạt được một thỏa thuận lâu dài giữa Palestine và Israel, và theo một nhà đàm phán của Hoa Kỳ, chính quyền của ông đã đóng vai trò là “luật sư bào chữa của Israel, cung cấp và phối hợp với Israel khiến cho các cuộc đàm phán hòa bình bất thành.”
 
‘Tiến trình hòa bình’ và ‘cuộc chiến chống khủng bố’
 
Sau sự kiện 11/9, Tổng thống George W. Bush đã chấp nhận rằng Israel đang tiến hành cuộc chiến chống khủng bố của riêng mình, và điều kiện họ đặt ra là phải thay đổi lãnh đạo Palestine trước khi ngồi vào bàn đàm phán. Nhưng cả lời kêu gọi thành lập một nhà nước Palestine của Bush và việc Mahmoud Abbas đắc cử tổng thống Chính quyền Palestine năm 2005 đều chẳng thể dẫn đến một thỏa thuận nào.
 
Năm 2006, chính quyền Bush đã thúc đẩy và tán thành sự tham gia của Hamas vào các cuộc bầu cử lập pháp của người Palestine. Khi Hamas giành chiến thắng và thành lập chính phủ mới, cả Israel và Hoa Kỳ đều từ chối thỏa thuận, áp đặt các biện pháp trừng phạt đối với Chính quyền Palestine và tìm cách gia tăng mâu thuẫn giữa Hamas và đảng Fatah của Abbas. Bush thậm chí còn ủng hộ kế hoạch bí mật châm ngòi cho một cuộc nội chiến ở Palestine, gây ra cuộc đối đầu quân sự giữa Hamas-Fatah. Cuộc chiến đó kết thúc với việc Hamas tiếp quản Gaza, khiến Israel áp đặt lệnh phong tỏa Gaza vào năm 2007.
 
Tổng thống Barack Obama ủng hộ các cuộc tấn công của Israel vào Gaza nhưng cũng chẳng loại bỏ được mối đe dọa quân sự từ Hamas. Về mặt ngoại giao, Obama miễn cưỡng tham gia trực tiếp, còn Israel vẫn từ chối ngừng vĩnh viễn xây dựng các khu định cư.
 
Các Hiệp định Abraham của Tổng thống Donald Trump và các cuộc thảo luận gần đây dưới thời chính quyền Biden nhằm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Israel và Saudi cho rằng xung đột Ả Rập-Israel có thể được giải quyết mà không cần phải động tới xung đột Palestine. Nhưng cuộc chiến hiện tại đã thách thức suy nghĩ đó và chỉ ra rằng sự hỗ trợ của Hoa Kỳ cho Israel hiện nay thực sự là “vững chắc và kiên định.”

Nguyên Hòa biên dịch

Nguồn: “A brief history of the US-Israel ‘special relationship’ shows how connections have shifted since long before the 1948 founding of the Jewish state” của Fayez Hammad, được đăng trên trang TheConversation.com.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở Hoa Kỳ, khi nghe đến cụm từ “giáo dục tổng quát,” người ta thường hình dung về những khóa học nhập môn trong các lĩnh vực nghệ thuật, nhân văn, khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và toán học. Tùy vào mỗi trường, chương trình này có thể mang những cái tên khác nhau như “chương trình căn bản” (core curriculum) hay “các môn học bắt buộc” (distribution requirements). Ngoài ra, chương trình này đôi khi còn có một tên gọi khác là “giáo dục khai phóng” (liberal education). Hội các trường Cao đẳng và Đại học Hoa Kỳ (American Association of Colleges and Universities, AACU) mô tả đây là chương trình giúp bồi dưỡng “tinh thần trách nhiệm xã hội, cùng với các kỹ năng trí tuệ và thực tiễn vững vàng có thể vận dụng linh hoạt.”
Trong nhiều năm kể từ khi Jeffrey Epstein được phát hiện chết trong phòng giam tại Metropolitan Correctional Center (MCC), New York, giới chức liên bang luôn khẳng định rằng cái chết này là một vụ tự sát. Tuy nhiên, một cuộc điều tra độc lập do CBS News thực hiện đã phơi bày hàng loạt mâu thuẫn giữa các tuyên bố của chính phủ và những gì thực sự hiện ra trong đoạn phim giám sát vừa được công bố.
Cuối mùa Hè năm 1955, Till-Mobley tiễn con trai của bà, Emmett Till 14 tuổi lên một chuyến tàu từ Chicago đến thăm chú và các anh em họ của Emmett ở quê hương Mississippi của bà. Giống như những phụ nữ và đàn ông da đen nói với con cái họ về việc chú ý các điểm dừng giao thông và các cuộc chạm trán khác với cảnh sát, Till-Mobley đã căn dặn Emmett rất kỹ. Bà cho cậu biết cậu đang đi đến một nơi mà an toàn phụ thuộc vào khả năng kiềm chế sự bốc đồng, tính cách không khuất phục của cậu với người da trắng. Linh cảm của người mẹ mang đến trong lòng bà nỗi bất an không giải thích được. Bà đưa cho Emmett chiếc nhẫn bạc của ông Louis Till, cha của cậu. Chiếc nhẫn khắc chữ L.T.
“Đi về Miền Nam, miền hương thơm bông lúa tràn ngập đầy đồng; Đi về Miền Nam, miền xinh tươi đất rộng cùng chung nguồn sống” Và cứ như thế, với tiếng hát trong tâm tưởng, từng đoàn người gồng gánh ra đi. Họ đi về hướng Nam giống như cha ông của mình từ bao nhiêu thế kỷ trước. Bây giờ lại còn một động lực mới và mãnh liệt khác, đó là đi tìm tự do: ‘chúng tôi muốn sống!’, như tên gọi một cuốn phim nổi tiếng của đồng bào di cư sau này. Cuối tháng 6, dù hiệp định đình chiến chưa ký kết nhưng quân đội Pháp và Quốc gia đã rút lui khỏi nhiều địa điểm ở đồng bằng Bắc Việt nên nhiều người bắt đầu di tản về các đô thị, đặc biệt là Hải phòng.
Cõi này ngày càng bất an! Tình trạng hâm nóng toàn cầu đã dẫn tới nhiều thảm họa như bão lụt, hạn hán, mực nước biển dâng cao, dịch bệnh, mất mùa, đói khát lầm than. Chiến tranh thù hận ngày càng hung bạo đã làm cho hàng triệu người thương vong, nhà cửa ruộng vườn bị phá hoại. Các chế độ độc tài, quân phiệt, và nạn kỳ thị sắc tộc đã thẳng tay đàn áp dân lành. Tất cả những điều trên đã dẫn đến thảm trạng bỏ nước đi của hàng triệu người trên thế giới! Theo Population Division of the United Nations Department of Economic and Social Affairs (UNDESA), năm 2024 có tới 304 triệu di dân trên toàn cầu, là một con số tăng gần gấp đôi kể từ năm 1990, khi lúc đó có 154 triệu di dân trên thế giới. Đó là 3.7% tổng dân số địa cầu. Theo Cơ Quan Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, tính tới cuối năm 2024, có 43.7 triệu người tị nạn, gồm 6 triệu người tị nạn từ Palestine và 8 triệu người xin được nhận vào quy chế tị nạn trên toàn cầu.
Trong số người Việt, thế hệ thứ nhất có 29% học xong cử nhân hay cao hơn. Thế hệ sinh ra lớn lên tại Hoa Kỳ con số này là 59%. Như thế có thể lý giải là phụ huynh không có cơ hội học cao nhưng khuyến khích con theo đuổi đường học vấn cho tương lai.
Khi các chuyên gia quan ngại về mối quan hệ của giới trẻ với thông tin trực tuyến, họ thường cho rằng giới trẻ tuổi không hiểu biết về phương tiện truyền thông như những người lớn tuổi hơn. Nhưng công trình nghiên cứu dân tộc học do Jigsaw – cơ sở công nghệ của Google - thực hiện lại tiết lộ một thực tế phức tạp và tinh tế hơn: Thế hệ Z, thường được hiểu là những người sinh sau năm 1997 và trước năm 2012, đã phát triển các chiến lược khác biệt rõ rệt để đánh giá thông tin trực tuyến, những chiến lược sẽ khiến bất kỳ ai trên 30 tuổi trở nên bối rối. Họ không tiếp thu thông tin như những người lớn tuổi hơn bằng cách đầu tiên đọc tiêu đề và sau đó là nội dung.
Người Việt Nam không ai xa lạ với từ ‘Gulag’ - trại tù lao động khổ sai khét tiếng của Liên Bang Xô Viết. Ước tính trong khoảng hai thập niên từ 1930-1953, nơi đây giam giữ khoảng 4 triệu tù nhân; 1.5 triệu đã chết trong tù hay sau khi được thả một thời gian ngắn. Gulag từng được xem là địa ngục trần gian, là biểu tượng cho sự tàn bạo của nhà tù cộng sản. Trong những ngày cuối tháng 6, khi mà người dân Mỹ chuẩn bị pháo hoa đón mừng Lễ Độc Lập, cái tên Gulag được sử dụng khi nói đến một nhà tù mới được hình thành ở Florida. Nhà tù này có tên gọi là Alligator Alcatraz. Trong một bài viết được đăng trên trang mạng Amrican Community Media ngày 30/06/2025, nhà báo Laszlo Bartus đã cảnh báo rằng nó sẽ là nhà tù vô nhân đạo nhất thế giới.
Trong hơn bảy mươi năm qua, quan hệ giữa Hoa Kỳ và Iran đã trải qua nhiều bước ngoặt – từ một liên minh chiến lược thời Chiến tranh Lạnh, đến một trong những nước đối đầu gay gắt và kéo dài nhất của thời đại hậu thuộc địa. Bản tóm lược dưới đây ghi lại những cột mốc chính từ năm 1953 đến 2025, nhằm cung cấp một cái nhìn toàn diện về diễn biến phức tạp của quan hệ Hoa Kỳ–Iran trong bối cảnh biến động địa chính trị toàn cầu.
Tháng 5 vừa qua, một chuyến bay từ Johannesburg, Nam Phi đã đáp xuống phi trường Quốc tế Dulles, Hoa Kỳ. Trên phi cơ là khoảng 50 công dân Nam Phi da trắng thuộc cộng đồng Afrikaner. Những người này cho biết sinh kế của họ đang bị đe dọa nghiêm trọng do xã hội ngày càng “kỳ thị người da trắng.” Cách mô tả tình hình Nam Phi như vậy ngay lập tức nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ từ các nhà bình luận cánh hữu có ảnh hưởng ở Mỹ như Tucker Carlson, Charlie Kirk, và Stephen Miller.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.