Hôm nay,  

Mùa Vọng

19/12/202313:28:00(Xem: 2465)
Truyện
nhatho thanhlinh


 

« Cùng nhau quỳ dưới chân Chúa cao sang »

 

Sau ngày kiếp nạn 30-04-1975 thì mẹ tôi vẫn còn một người bạn thân, ở gần, vì ở cùng xóm, xóm Hoàng Diệu. Đó là bác Mão. Bác buôn bán rất giỏi, tôi chưa thấy ai tháo vát xoay sở trong mọi hoàn cảnh đổi thay mà hay như bác.
    Trước ngày mất nước, bác làm cho hãng Shell, sau khi giải thể, bàn giao cho cộng sản, bác về nhà nghỉ ngơi ít ngày, rồi bác đắp ngay một cái lò nướng bánh mì kiên cố trong sân nhà. Phải nói là nhà bác rất khang trang với một cái sân rộng, diện tích lối gần 250m² bác nói ngồi ôm cái buồn chỉ buồn thêm, nên bác mượn một công thợ rồi cùng với người thợ xây làm bánh mì. Ơ hơ thì sẵn nhà nước không có gạo, mà bán toàn bột mì, thì ta làm bánh mì, bán và ăn luôn, giờ ta biến thành tây, bác cứ nói vui vui như vậy.
    Bác có năm cô con gái, bác bảo ngũ long công chúa, nên chúa cho bác ăn nên làm ra theo thời. Ba chị lớn giúp bác rất nhiều việc, từ việc thu dọn nhà, cơm nước, đến việc sản xuất bánh mì. Hai đứa sau cùng trạc tuổi chị em tôi, còn cùng nhau đi học lớp 6, lớp 7 trường phổ thông cấp II gần nhà. Chúng tôi thường sang nhà bác chơi luôn. Gọi là sang chơi, chứ chúng tôi cũng phụ bác thu xếp sân, nhất là kiểm đếm bánh mì ra lò.
    Trước cổng nhà, bác bầy một cái tủ kính nhỏ, đã nói là bác khéo tay lắm, trong tủ kính bán bánh mì đó, bác bán bánh mì kẹp thịt đỏ, xá xíu, pâté gan và đồ chua, tất cả là do hai bàn tay thiện nghệ của bác sáng tạo… và bán rất đắt hàng, bán rẻ mà.
    Mỗi ngày, từ 5 giớ sáng tinh mơ, chuông nhà thờ Thánh Tâm thong dong đổ, mời gọi giáo dân đi lễ, là bác Mão đã cong lưng đạp xe đạp mang bánh ra nhà thờ, bác giao cho ông quản Bích bán hai giỏ bánh mì đầy. Tiền bán thu được, thì bác nói ông quản giữ lấy mua đèn cầy, hoa, nến lớn, nhỏ và trả tiền điện… mọi thứ lặt vặt cần cho giáo đường. Loại bánh này thì nhào bột, bác chỉ chúng tôi nắm những vắt bột nhỏ, nở thành bánh mì con cóc, cho tiện bán, bột này bác nhào kỹ và trộn thêm chút đường vàng và vani cho thơm. Còn bánh mì để bác trước nhà và bánh mì tổ bác làm lớn gấp hai lần và dài gọi như là bánh baguette. Nói vậy chớ bánh baguette lúc ra lò cũng thơm đáo để, có lẽ vì mùi vani và mùi lá dứa lót lò còn sót lại từ những đợt nướng bánh trước.
    Bác Mão theo đạo công giáo, rất thuần thành, yêu kính và sống theo ý chúa và đức mẹ Maria, bác, dù bận tới đâu, cũng không bỏ qua tuần thánh nào mà không đi ngắm. Bác lấy chồng theo đạo Phật, đúng hơn là đạo ông bà, điều này không quan trọng, vì bác Mão rất đạo đức và nể trọng mọi đức tin. Khi chồng bác mất, bác trang trọng lập một bàn thờ riêng cho bác Doãn, chồng bác. Trên bàn thờ chồng, trước tấm ảnh phóng lớn của bác Doãn mặc quân phục Việt Nam Cộng Hòa rất uy nghi, bác để một bình hoa sen và một lư hương nhỏ bằng đồng sáng loáng, mỗi lần vào thắp nhang cho chồng, bác lại tần ngần đứng lại, lấy khăn sạch lau lau chùi chùi nhiều lần, đến độ cái lư hương sáng loáng soi gương được.
    Thảng hoặc, có buổi chiều nào thu xếp xong việc buôn buôn bán bán, bác lại hâm nóng một ít bánh mì còn dư trong ngày, xào tí thịt vụn với mỡ hành, dồn vô bánh, để sẵn đó, mấy người công an khu vực có tới hỏi mua, bác chỉ tặng họ mà không lấy tiền, họ hay đi kiểm tra hộ khẩu mỗi tối, nếu họ có thắc mắc, bác nói là, các cháu đã đủ ăn trong ngày, nên bác biếu. Khi nào mà công an khu vực không đến, sáng sớm mai hôm sau, bác lại mang ra cổng chợ Tô Hiến Thành tặng những người  đói còn ngồi tá túc trên các sạp hàng… từ khi chợ chưa họp.
    Bác làm việc nhiều, tháo vát, năng động luôn luôn nên có hơi vội vã, vả lại bác cũng nhỏ người, tròn lẳn, nên mỗi sáng sớm, leo lên xe đạp, là đạp vội vội vàng vàng, ý là cũng không ai để ý, nên đạp khỏe, hai mông nhô lên nhô xuống coi tức cười… từ trong cửa sổ bếp, chị em tôi thấy bác xẹt qua là cười với nhau “Đít bông đã lên đường”. Mẹ tôi hiểu ý, rầy rà, sao các con nói bác như vậy… hỗn láo vừa vừa thôi nghe!
     Tụi con có hỗn láo hồi nào đâu, kìa, mẹ ra coi, bác có hai cái mông nó bông bông thiệt đó chứ… mấy ai được như bả, thôi cứ gọi là “bà đít bông“ cho lẹ!
    Chọc ghẹo vậy chớ tụi tôi yêu quý bác đít bông lắm. Rồi tới một ngày, cũng không bông bông nữa. Vì là nhà nước hết bột mì bán rồi.
    Một ngày, tan học, làm và học bài xong, chúng tôi không biết làm gì nên lại tràn qua nhà bác. Hôm đấy, bác chặt mía cây ngoài vườn, mang vô nhà, róc mía nhai đã đời, mỏi cả răng, dòm nhau cười chán chê, bác mới thân ái bảo cả bọn là:
    Này, mấy đứa, từ nay đừng kêu bác là bác Mão hay bà đít bông nữa nhe… nghe dị hợm, cứ gọi tao là bà Doãn, tao thích vậy, nghe ổn hơn.
    Tụi tôi chu mỏ:
    Chữ Doãn khó đọc lắm bác ơi, mấy đứa cong môi nhọn mỏ ngoẹo qua ngoẹo lại… Doan Do…an Do…an… ngã Doãn…
    Bác cười:
    Tụi bây làm khó tao hoài, thôi được, vậy gọi tao là bác Dân đi.
    Ơ, không phải kiểu nhân dân đòi làm chủ hả bác?
    Tụi tôi lại cười rộ, một đám con nít vô ý tứ, trong khi chị Thanh, con gái lớn của bác, đứng bên cánh cửa, chị lừ lừ mắt rồi kín đáo khép cửa đi xuống sân. Bác cũng nhác thấy chị Thanh, nhưng im bặt, bác đứng dậy lặng lẽ lên lầu, à thì ra bác đi thắp nhang cho bác trai.
    Cứ tưởng ít ngày sau bột mì sẽ có lại, nhưng nước Nga không viện trợ nữa, cái lò làm bánh bỏ không hiu hắt. Bác rảnh rang và có lần vô thăm má tôi. Bác Dân rì rầm có lần tâm sự cùng má tôi, là bác trai mất đi bác buồn vô hạn, nhưng rồi trong một đêm bác mơ thấy bác trai về trong giấc ngủ của bác, vui tươi nói bác phải ráng vui vẻ làm việc mà nuôi con chứ, con thi đông. Bác trai còn nhắn nếu có khó khăn quá, thì hỏi ý anh Hai giúp đỡ!
    Anh Hai nào?
    Thì anh hai Nhạ của tôi đó. Tôi còn có mình ổng!
    Ổng làm lớn lắm hả? Chắc là ổng giầu.
    Cũng không biết, hỏi làm giống gì, thì ổng đưa tay lên miệng « Xuỵt ».
 
***
 
Mùa Noël lại tới, chuông nhà thờ vang vang, « Vinh danh Thiên Chúa trên trời, bằng an dưới thế cho người thiện tâm… » Nhà thờ Thánh Tâm Hòa Hưng treo đèn kết hoa rực rỡ, dù e dè cộng sản thế nào, nhưng lòng con chiên thổn thức hướng về Chúa. Giáo dân treo đèn kết hoa theo khuôn viên nhà thờ. Tiếng guốc trẻ con soèn soẹt kéo lê trên sân gạch rộn ràng. Các cụ bà cắp chiếu đi xem lễ buổi trưa, chiều, chào gọi nhau rôm rả. Đèn ông sao đủ mầu sáng rực ở một góc sân có hang đá thiêng liêng. Một cái gì rất ấm cúng, được vuốt ve êm dịu trong giờ phút trọng đại Chúa ra đời:
    … Chuông  vang vang chuông vang vang, chuông giáo đường vang vang…
    Rồi cũng một buổi Noël rạng rỡ, ở đấy, khi lễ đã vãn, bác Dân gái tôi còn lại một mình trong hàng ghế cuối. Bác quỳ khấn miệng thì thầm rất lâu. Một lúc sau, chờ cho thật vắng người, bác đi quanh quẩn qua các bàn thờ, rồi trực chỉ lên bàn thánh cha vừa làm lễ xong. Hình như bác xin được xưng tội giùm cho một người ruột thịt của bác đã qua đời. Tay bác không ngừng lần chuỗi mân côi, bàn tay run run.
    Bác Dân nhìn cha xin tha thiết, nước mắt lưng tròng :
    Thưa cha, vậy có ơn chúa, có được không?
    Cha Phéro Giuse Nguyễn Văn Vàng ôn hòa an ủi, cũng như trả lời con chiên:
   Tôi nhắc lại lời chúa, « Anh em chị em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì cửa sẽ mở cho ».
    Lạy Chúa, Thầy Sáu anh Hai con lợi dụng lòng tin của cha Hoàng Quỳnh… xin chúa thương xót!
    Có tiếng nức nở, rồi tiếng đàn piano và tiếng hát của ca đoàn từ trên balcon cao trỗi lên lời vang vang thánh thót :
    « Lạy thánh thần, xin ngài nổi gió lên
    Gió linh thiêng mang linh khí muôn nơi
    Hãy cuốn đi những ô nhục kiếp người
    Cho nhân phẩm nên siêu cao thần thánh ! »
    A-men.
    Đêm Noël đêm Noël ta hãy chúc nhau an bình
    Đêm Noël đêm Noël ta hãy chúc nhau an bình…
    Sau mùa Noël đầy ý nghĩa năm ấy, tôi không còn gặp bác Doãn đi lễ mỗi cuối ngày, mỗi sáng chúa nhật nữa. Bác đã đi xa, bác dẫn bốn con gái đi thật xa. Nhà bác cửa đóng then cài kín mít, bên trong chỉ còn lại một mình chị Thanh, một hôm tôi tò mò nghển cổ hỏi chị qua bờ tường:
    Thế lúc chị đòi ở lại một mình, thì bác gái nói sao?
    Ơ, không, chị không ở một mình, có bà nội chị về đây ở với chị mà.
    Ơ… là lúc chị nhứt định không đi, bác gái có giận không?
    Mẹ chỉ nói là, con không đi, thì con cứ ở lại đây. Mẹ đưa các em đi, xong xuôi, biết đâu rồi mẹ lại về lại với con.

 

Chúc Thanh

(Paris mùa Noël 2023)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.