Hôm nay,  

Nhà Bên Kia Sông

22/12/202300:00:00(Xem: 2658)
Truyện

Nam Bộ

Nhà vẫn đơn côi bên bờ sông. Gió về mở hội từng đêm. Đom đóm về thắp đèn. Ánh sáng lập lòe dọi qua cánh màn mỏng ngả màu vàng như quả dưa gang. Mẹ Thời ngồi đó trông ra, chiếc quạt để đầu giường. Bà lấy tay xua xua những con muỗi.

Thằng Đắc đã viết gì về chưa con? Chưa mẹ ạ, có gì con sẽ báo. Mà mẹ cũng đừng nghĩ ngợi nữa, tuổi này ta sống thế này có phải vui không?

Sau tiếng vui, Thời huýt một đoạn sáo gợi lên những ca từ dí dỏm lắm trong một bài hát, tiếng sáo đi xa tận ngõ, nghe được cả tiếng cá đớp ở con lạch cạnh bờ sân chạy vào. Mẹ Thời thở mạnh một cái, nó buồn hay vui bà đâu biết.

Sau tiếng sáo vui, Thời ngồi lại cạnh gốc dừa tỏa bóng xuống dòng mương, lá nó xanh và dài, thân tròn và mập. Thời nhớ tóc Diệp cũng dài và xanh thế, Thời nhớ người Diệp cũng tròn và mập thế. Thời đã ôm, đã hít hà mùi tóc, đã lần qua làn áo để biết được hình dáng trái dừa non cong vênh đầy kiêu hãnh tuổi xuân thì đời dừa, khi từng dòng sữa trắng chảy ra ở rốn dừa non, mẹ Thời vẫn hái xuống, chặt vô, để chàng được thỏa thuê uống nhiều khi.

Diệp có mùi thơm của dừa non, cả người Diệp toát ra mùi thơm dừa non háo hức lắm.

Tiếng con cá quẫy vào đám lục bình tành tạch, một đụn dừa nước nào được đùn tới, từng đám lá khô chạy dọc trên những con sóng nhỏ xô vỗ vào bờ. Âm thanh đó gợi Thời nhắc đến tiếng sóng biển đánh oàm oạp ngoài khơi xa. Tiếng con tu hú cất lên vài đường lảnh lót. Thời nghĩ đó là tiếng còi tàu. Tim Thời thắt lên những nhịp nấc, môi Thời tím lại ở cái đoạn có có tiếng ca vui thoát ra ngoài bằng tiếng sáo: Này này cô em, ta yêu cuộc sống, em biết chăng em, hãy về cùng
ta, chung xây cuộc đời…

Mẹ Thời bảo, làm gì mà có nhiều khúc ca vui thế con. Bởi cả đời bà buồn, nên tiếng đàn của bà thường buồn lắm, cất lên những khúc thê lương ảo não, dội vào từng khúc sông mùa bão lũ. Bà dạy đàn cho Thời từ nhỏ. Lạ thay tiếng đàn cũng buồn, chưa khi nào vui cả: Chàng đi thiếp vẫn ở đây; bờ sông chẳng gió người hay chớ người…Nên bà chẳng tin có một tiếng ca vui trong tiếng sáo thằng con trai đã kịp lớn nhiều năm mà chưa bao giờ nghĩ chuyện hỏi vợ.

Thời ngồi và nhớ lại bàn tay mẹ đan trên những phím đàn nhỏ máu khi dạy con cách cầm phím và bấm dây ngày Thời chỉ vài tuổi. Khi đánh lên những khúc ca hình như người ta mong đời mình được cất cánh. Rồi bà dạy Thời hát. Chỉ có vẽ tranh là Thời học được từ ngày học Tổng hợp Văn, Thời hay lân la chơi với những anh chàng học trường Mĩ Thuật. Họ dạy Thời cách pha màu, cầm cọ, cách làm cho một đôi mắt rũ buồn hay sắc lên ma quái và ám ảnh. Thời đã vẽ đời sống bằng tất cả sự ma quái và ám ảnh đó. Khi bữa trước, mẹ Thời dặn, phòng tranh của con mục lên vì nước rồi đấy, đem hết chúng ra hong đi. Công việc đó bà vẫn làm thay con trong những ngày trời ấm hoặc mùa mưa. Chọn ngày nắng ráo, phơi cho cả nỗi buồn hay niềm hi vọng, thì niềm vui đó đâu phải chỉ của bà, khi những bức tranh đó phải nhờ đến họa sĩ Châu Âu thẩm định.
Trường phái tranh con bà khác biệt, hay tư duy anh khác biệt, hoặc óc nghệ thuật của anh vượt trội hơn giống loài nơi xứ sở này, hoặc là mĩ cảm nghệ thuật đó vốn có gen di truyền từ thời nào ở xứ sở văn minh mà bà quên hỏi chồng, anh thích vẽ không. Sau này nỗi buồn lớn nhất của bà là chưa kịp hỏi ông, anh có năng khiếu hội họa không, nhưng bà tin là có, chắc chắn là có, bởi đứa con bà có. Còn đàn ca thì khỏi bàn, ở góc độ nào đó, ông còn hơn bà. Chính ông dạy bà
violin và piano, ông dạy bà hát nhạc đồng quê, và những bài hát thịnh hành ở những thập niên đó.

Nhưng Thời chỉ thích nhạc dân gian và những bài hát dân ca. Từ nhỏ Thời thuộc về xứ sở này, những dòng sông, cánh cò, con thuyền, điệu đờn ca tài tử, mấy bài vọng cổ, bài chòi…, nên bà vẫn nghĩ con bà lý ra phải ở một thế giới khác rực rỡ sắc màu và những điều kỳ diệu để tài năng của anh được đánh giá. Nghĩ đến đây, anh lấy cây gậy chọc thằng xuống dòng nước đầy cho một bè lục bình trôi ra xa. Mùa nước lên, nước ngập vào gần sân nhà. Nhà bên sông, đom đóm vào mở hội, chúng bay rập rờn ở rặng râm bụt ngoài cổng, chúng đậu vào mấy bông trang, chúng sà xuống mái lá, rồi chúng vờn quanh chiếc võng anh nằm. Ngày xưa, Diệp thích ngắm bức tranh đêm đồng quê và đom đóm lắm. Diệp bảo anh, sau này có đi đâu mình vẫn muốn đem thứ này
theo. Diệp giống anh, con người của đồng quê và những điệu dân ca, khúc cá kho và bè lục bình trôi nổi. Diệp nhìn vào bầu trời đêm hít hà những khí ấm. Diệp bảo, trời đêm có mùi quyến dụ cực kì, Thời biết không? Rồi nàng nhắm mắt thật chặt để trí tưởng tượng đi xa. Nàng để cho cái mũi tiếp diện với bầu trời rộng nhất. Anh chưa hình dung có đúng mùi như Diệp thấy không, nhưng anh tin Diệp, bởi từ người nàng tỏa ra một mùi thơm ngào ngạt còn hơn cả dừa non, mà anh nghĩ mùi đó do nàng hít trời đêm mà có.

Đắc viết thư về từ mấy năm trước bảo, tao đã tìm khắp nơi mà chưa thấy Thời ạ. Thời đã quen với điều ấy từ lâu, khi mẹ anh vẫn đem những bức ảnh cũ ra hít hà, như Diệp hít trời đêm vậy. Anh bảo mẹ, mẹ hãy cất quá khứ đi, để cho nó ngủ yên, còn con đây, mới là hiện tại của mẹ. Mẹ anh hiểu điều đó chứ. Bà vươn cánh tay mình ra quàng vào cánh tay dài quá khổ của con. Mẹ hiểu, cảm ơn con, nơi đây mới là hạnh phúc. Tiếng nói cuối cùng bị chìm lấp đi bởi tiếng con chim chành chạch kêu, như tiếng người ta ca oán về nỗi buồn, sự hi sinh đợi chờ, mà phải đêm về mới dám nói thật. Loài chim này tuyệt nhiên chưa bao giờ kêu ban ngày, như bao loài chim khác anh vẫn nghe hằng đêm ở khúc sông có ngôi nhà và con ngõ: trói cột cô đi, đêm qua chờ bạn, buồn thì phải nói, cô độc cô độc… Đó là những tiếng kêu, chính bà gọi ra cho anh vào những ngày anh còn bé để dễ phân biệt với loài chim khác, nên những âm thanh đó ám ảnh anh nặng nề mấy chục năm chẳng mất. Đắc bảo, điều gì ta nghĩ nhiều từ hồi bé thì
sau này vẫn thế. Nên có những lá thư về, cậu ấy hỏi anh, mày có ra chỗ hủm sông, đoạn có cây cầu mà mẹ con con sẻ dạo nọ không? Mày có nhìn thấy mẹ con con sẻ một lần nào nữa không? Anh bảo, bao đôi sẻ đồng chết đi rồi lại sinh ra, thì nó vẫn ở đấy sản sinh và tồn tại, mày nghĩ làm gì. Là ở đây cũng có sẻ đồng, nhưng tao muốn hỏi chỗ cũ.

Là cái chỗ anh và nó chui vào ngày tuổi thơ để tìm một ổ chim. Thấy con sẻ non nằm thoi thóp chờ mẹ. Đồng xa sắp gặt hết mùa. Từng đoàn người vác dao và gậy đi lùng sẻ trong một chiến dịch tìm và diệt. Anh thấy con nhỏ nằm im thoi thóp, xung quanh vẫn còn dấu tích của mẹ nó mới đây. Cọng rơm tươi, vỏ con châu chấu, mẹ nó rõ ràng vẫn ở đây. Nhưng hôm sau thì nó chết. Mẹ nó có kịp về không? Anh và Đắc không biết. Đó là một bí mật lớn lắm của hai đứa, cũng là bí mật lớn của mẹ con nhà sẻ, mà tận giờ Đắc vẫn muốn hỏi anh, mẹ con nhà sẻ còn đến đó không.

Đắc mất mẹ cũng vào năm đó. Mẹ Đắc đẻ đứa em kế bị hậu sản phải nằm nhà vài tháng. Em Đắc bị bên nhà nội bắt đi. Mẹ Đắc không đi làm được cho hợp tác nên không có công điểm. Một ngày bà nằm còng queo rồi chết. Có người bảo vì bà kiệt sức. Đắc lại nhớ sáng đó bà đã dành nốt cho Đắc bát cơm trộn củ mì cuối cùng vét trong xoong để Đắc đến trường. Người làng vẫn bảo, con mẹ bị hậu sản đến kiệt mòn, bao người bị hậu sản đã chết ở vùng này đó thôi, chắc còn ít hơn số người chết vì bom đạn. Thế thì còn cần gì phải bàn cãi nhiều. Thời gian sau không còn ai nhớ đến mẹ Đắc nữa. Chỉ Đắc ghim hình bà ở trong tim cho đến tận bây giờ, qua lời nhắc nhớ mẹ con sẻ đồng ở hủm cát cạnh bờ sông. Anh thấy tim mình nghẹn đi mấy đợt, anh lắng nghe tiếng quạt từ trong nhà, mẹ anh vẫn còn bên anh, thế chẳng phải là niềm vui sao. Nghĩ vậy anh rời lạch nước bước vào nhà.

Đêm đã sâu, bờ sông đom đóm đã về mở hội ở khúc đoạn nào, hương từ muôn loài cây lá mới tỏa ra ngào ngạt, mùi hoa bưởi trộn cùng mùi trái cau non lẫn mùi thum thủm của bùn đen, mùi ngai ngái của vạt cỏ dại, và mùi dịu dịu, ngầy ngậy của những quả dừa non kiêu hãnh trên cao.

Mẹ anh đã thôi quạt, bà đã đi vào giấc ngủ của mình. Đêm đem theo biết bao hồi ức, anh biết, nên anh muốn xóa tan hồi ức đó để đẩy mẹ về với hiện tại, bằng cách hát lên những khúc ca vui, thổi một điệu sáo lòng nhảy nhót, hay gợi cho bà biết, cánh đồng bắp kia, mấy sào lúa và đầm cá tôm, và phòng tranh, cùng cây đàn, mảnh vườn trồng mận đỏ, và những trái ớt, luống rau… chẳng phải cho mẹ con bà một cuộc sống thật bình yên đó ư?

Ừ thì là bình yên, nhưng sao cấm con người ta tìm kiếm? Giống như anh, anh vẫn nghĩ về mái tóc của Diệp, nghĩ về đôi mắt và mùi dừa non từ nàng là thế. Nhưng đời sống đâu chỉ cần hiện tại, như người đàn ông anh thấy trăm lần trong những bức ảnh của mẹ anh và ông hồi trẻ, như một minh chứng đầy kiêu hãnh về tình yêu, hoặc tháng ngày thanh xuân rực rỡ của tài hoa và sự thu hút nhau. Phải, bà đẹp. Bà đẹp nổi tiếng vùng căn cứ quân sự đó. Mắt bà trong như mắt con bồ câu, da bà bánh mật ánh lên như màu đường mía, ngực bà tròn. Thành vẫn nhớ cảm giác được chui mình vào quả bầu tròn ấm áp và rắn đanh đó ngày xưa. Ngày xưa bà đẹp ai cũng biết. Bà đã chuyển đến vùng đất này để tránh soi mói chuyện bà đẹp hay nhiều chuyện khác nữa, anh không biết. Đó là ngày anh vào năm lớp bốn. Anh nghĩ bà và anh đã phải đi một chuyến xe dài lắm. Quá khứ lâu rồi anh không còn nhiều ký ức về chuyến chuyển dời lịch sử đó của hai mẹ con, khi ông ngoại anh đã chết, cậu, dì cũng chết hết trong nhiều trận bom, còn anh thì ngủ say quá trong chuyến xe đò trong những năm đầu thống nhất, nên không nhớ. Và sao bao vùng đất bà lại chọn ở đây, thì anh không biết, và cũng không bao giờ muốn lý giải, chỉ niềm vui với Đắc và Diệp là bất tận, nó đã choán hết ý nghĩ muốn tò mò của một đứa trẻ lên mười. Cũng chưa bao giờ bà kể câu chuyện quá khứ của bà. Chỉ là những bức ảnh, nó cũng chỉ thuộc về thế giới của bà và anh, sau này có Đắc, khi anh đã nhờ Đắc, người đã đi một chuyến thật dài, hỏi hộ anh, nhưng cũng chưa ai biết, chưa ai thấy, hay chưa ai công nhận. Anh cũng quên rồi, quên mình bao tuổi, quên đời mình đã trải qua những biến cố gì, chỉ biết năm mười bảy tuổi, anh vào trường Tổng hợp Văn học thiên về văn học dân tộc, rồi anh vào một ban nhạc của trường chuyên hát những bài dân ca. Cuộc đời anh chỉ gắn với dân tộc. Và trở về quê hương ăn cá kho, mắm ruốc, nộm cá mòi do chính tay mẹ anh nấu từ những sản vật ở đồng đất và dòng sông quê anh. Không có gì bảo anh không dân tộc. Nhưng khi anh ra trường vẫn không được dạy hợp đồng ở bất cứ trường học nào. Ông hiệu trưởng bảo anh, thầy thông cảm, thầy có sức khỏe và và kiến thức, tôi biết, nhưng thời buổi này chỉ sức khỏe và kiến thức thôi e chừng chưa đủ.

Có lẽ ông ấy muốn nói, cần mọi thứ thật dân tộc chăng - tôi không thấy thầy dân tộc, thậm chí, tôi không biết thầy học văn học dân tộc tôi như thế nào, hoặc nói tiếng Việt ra sao. Dù anh có khẳng định, anh chỉ thích cá kho và mắm ruốc, anh chưa bao giờ được nếm vị của chiếc bánh piza, nhưng không ai tin, họ cần một chứng chỉ cho một sự ổn định hay an toàn, mà hình thức là thứ an toàn nhất, mà tay anh thì mọc lông, mũi anh dường như dài quá, da anh chẳng sậm lại như mẹ anh, độ cao lại trội hẳn chăng? Khỏe mạnh thôi thì chưa đủ thật. Có lúc anh trách mẹ sao chẳng khéo nặn anh giống bà. Dường như không hiểu được suy nghĩ đó. Mẹ lại hay nhìn anh đăm đăm, khi anh thức, lúc anh ngủ, lúc anh ngồi đọc sách và đánh đàn, như tìm cho mình quá khứ, như sống cùng ảo ảnh, hoặc viễn tưởng mình đang sống cùng người xưa. Vì anh quá giống bố anh. Những bức ảnh là minh chứng rõ nhất. Chỉ có điều anh mỏng người còn ông thì đậm quá, anh lêu đêu, ông thì chắc nịch và vững chãi. Vì anh không được ăn uống đủ đầy? Anh lại lý giải, vì anh mang một phần dòng máu mẹ. Nghĩ như thế cho anh được về gần hơn với dân tộc.

Ngày Diệp nhìn anh lần đầu, cô đã khóc. Rồi Đắc, rồi cả trường nhìn anh như một loài vật khác giống loài gớm ghiếc. Chỉ có thầy Kha. Thầy từ vùng trong chuyển ra. Thầy có nhiều bạn bè ngoại quốc làm việc cùng ngôi trường nội trú ở Sài Gòn. Thầy lôi anh vào tất cả mọi hoạt động tập thể, cả những hoạt động đòi hỏi sự đặc biệt của trí tuệ và năng khiếu, hay sự dẻo dai và xuất sắc, chỉ anh làm được. Thầy đã nhận ra được tiếng đàn của anh, giọng hát, khả năng đóng kịch và diễn xuất, tài văn nổi bật … Anh là niềm tự hào của tất cả học sinh và giáo viên trong trường. Chỉ có điều anh chưa bao giờ được đi thi học sinh giỏi. Anh không phải là con chim bay được xa dù hót có hay thế nào. Diệp đã mê anh. Đắc coi anh là một chiến hữu. Bộ ba như chiếc kiềng vững chắc. Đó, tuổi thơ.
Tiếng ếch kêu ở một đoạn ruộng khô đưa vào làm anh nhớ, những nỗi nhớ cứ lang mang như thế chẳng khi nào chịu dứt. Phòng tranh của anh ngày càng đầy lên. Những ngày mưa ẩm ướt mẹ anh là người hăng hái nhất mang hong cho anh. Anh biết ơn mẹ vì điều đó. Khi bà thấy một người Tây du lịch qua khúc sông này, ghé bến bờ này, lên ngôi nhà của anh, trầm trồ trước những bức tranh. Ông đã hỏi mua vài bức và hứa sẽ giới thiệu thêm cho bạn bè. Hôm đó Thời đã tặng ông thêm một bức sau khi ngồi đàm đạo với ông cả buổi về các trường phái tranh trên thế giới từ cổ điển đến hiện đại bằng tiếng Mỹ - anh học được từ mẹ anh, và có thể từ tổ tiên anh, tiếng vọng hằng đêm về chăng? Ông đã rất thích thú hỏi anh, anh học ở trường hội họa danh tiếng nào? Anh bảo, anh không học hội họa, anh chỉ có những người bạn Mĩ Thuật, họ dạy anh vẽ tranh. Ông đã ồ lên đầy ngạc nhiên. Còn mẹ anh thì vui lắm, như hội mở trong cuống họng, bà rên lên những âm thanh bằng vốn tiếng Mỹ đã lâu lắm rồi bà không được sử dụng. Và bà chờ ông trở lại, nhưng ông đã không về.

Điều này anh đã biết nên không buồn như bà. Là bà còn chờ hơn một điều như thế - tin tức từ người chồng xưa, bà đã gói trọn cả niềm tin, dòng địa chỉ và bức ảnh…Nhưng rồi không một hồi âm. Anh tin có thể ông đã mất đột ngột. Người già thường mất bất thường. Nên anh không buồn. Bởi trong rương của bà còn rất nhiều những bức ảnh đã được chụp lại hoặc nhân bản. Có cả ảnh anh hồi nhỏ. Để tìm một manh mối phía bên kia đại dương, mà giờ đây bà trông chờ hết mình vào phía Đắc. Nó không hồi âm à con? Chưa thấy mẹ ạ. Anh thường nói dối bà như vậy, cũng như một sự an ủi mình để có niềm hi vọng mà chờ tiếp, như tiếng con chim “Phía trước” thường kêu “tin tiếp, tin tiếp”. Anh đặt tên như vậy, vì tiếng kêu đặc biệt chăng, hoặc tự đặt cho lòng mình như thế. Nên anh thường an ủi bà, mẹ phải bình tĩnh. Và bà vẫn bình tĩnh cùng anh đây. Và đợi tiếng chim từng đêm, và nhìn ra dặng cúc tần và hàng dâm bụt, nhìn những lá bơ đung đưa trong gió, để lại hỏi những câu xa xôi, chẳng biết rồi ông ấy có còn không.

Tình yêu bà chỉ nằm ở phía đó, một phía duy nhất ấy, có một người đàn ông tài hoa và lãng mạn, ra đi hứa hẹn trở về mà mất tích. Đời bà từng mất tích bao người đàn ông nhưng có ai đau như thế đâu. Như chú Tùng từng dặn, mẹ con em ở đây chờ anh về thu xếp với con mẹ cả rồi sẽ vào đón. Chú không vào nữa, bà cũng không buồn. Rồi những cái vuốt má từng đêm của những người đàn ông, họ đi qua con đường này lên những công trường trên kia hay vùng đào vàng phía núi. Họ dừng ở đây thật lâu hoặc chớp nhoáng, chìm trong màu phấn son và hương liệu của thứ nước hoa rẻ tiền anh vẫn ngửi từng đêm. Tiếng chuột chạy lúc rúc, tiếng cười khúc khích hoặc khùng khục…

Mẹ xin lỗi! Bao giờ vào buổi sáng, những giọt nước mắt vẫn còn đọng đầy trên cặp mi sưng húp. Bà lấy tay vọc sâu vào vú, lôi ra những đồng tiền lẻ cũ
rích, đưa cho anh đi mua kẹo đỏ xanh, như một sự bù đắp, đêm qua để anh phải ngủ một mình. Anh không trách bà. Anh đủ hiểu không ai nhận bà vào hợp tác, bà cũng không biết làm ruộng, chưa từng đi gặt, đi cấy, bà không biết đi biển. Tay bà để gảy đàn, miệng bà để hát ca, không ai muốn nạp dung bà, thì bà tự đẩy mình về một thế giới khác để tồn tại và mưu sinh. Anh hiểu. Bao người đàn ông đi qua cái chõng ấy nhưng chưa một người nào nằm lại với bà nổi hai đêm, còn nghìn đêm sau bà sống cùng những bức ảnh, những kỷ vật và ánh mắt đăm đắm nhìn vào anh, bởi nó hiện quá khứ, hoặc bà đang trôi vào ảo ảnh của hiện tại và tương lai bên người đàn ông bà yêu cả cuộc đời, người quân nhân bác sĩ Mỹ tài hoa.

Đắc viết thư về hai tháng trước, nó bảo, Thời ạ, cũng khó. Anh biết khó, nên có hi vọng nhiều đâu. Bảo nó, lo làm việc mà ổn định cuộc sống, có điều kiện thì lấy một cô vợ, chuyện của tao không sao đâu.

Tao chẳng lấy vợ nữa đâu Thời.

Anh biết nó nhớ Diệp. Diệp lại chỉ biết anh. Ngày nó ra đi, chỉ xin anh cho Diệp đưa tiễn. Diệp đến tận ngôi làng bên bờ biển để vẫy tay từ biệt. Nó khóc.
Con thuyền chòng chành đi xa, rồi xa mãi. Anh không đi tiễn. Anh muốn nó có kỷ niệm nhỏ nhoi nào đó có thể là cuối cùng với Diệp. Cuối cùng thật. Nó không về lần nào nữa. Anh thì cũng chẳng thể đi xa. Mẹ anh mất hết giấy tờ về người đó, khó lấy ai bảo lãnh. Làm một chuyến liều thân như Đắc, anh sợ, cho mẹ anh, và cho cả Diệp. Đắc chỉ có một mình. Tao đi lành ít dữ nhiều, một mình thì sợ cái chi, chết thì trôi xác, sống chắc gì cá nó không xơi. Sang đó có điều kiện tao sẽ đón mày. Nhưng nó lênh đênh nơi đó nhiều năm mà chưa ổn định như đã ước. Hay nó chỉ muốn đón Diệp, mà Diệp thì chẳng muốn đi. Diệp cũng chẳng còn muốn bên anh. Nên câu chuyện ở đi dừng lại mãi mãi ở bến sông này.

Con vào ngủ đi. Mẹ anh bảo. Tiếng bà đã khản đục đi vào gần buổi sáng.

Người già ai cũng thế chăng, hay chiếc phổi của họ không chịu được những cơn gió lạnh khi đêm trôi sâu về phía sáng, khi các loài cây rùng rùng thải ra khí độc. Anh dạ một tiếng rồi nằm xuống chiếc giường bên cạnh. Tiếng con chim “Phía trước” vẫn kêu “tin tiếp, tin tiếp”. Anh không biết nó còn tin vào điều gì nữa. Loài chim khác người, có ăn là vui, có nước sông để chao mình là sướng, có cá, đó là cả cuộc đời của nó. Anh thì khác, cần cội nguồn cần cả dân tộc, cần máu thịt lại cần cả quê hương, cần ước mơ và những chiếc cánh, cần tinh thần và cả nghệ thuật, sự hiến sinh, tận mình cho đam mê cuộc sống. Và thứ anh cần hơn là Diệp. Diệp đã đi xa lắm. Sau cái lần bố nàng cấm nàng hít hà mùi trời đêm nơi vườn nhà anh, cấm nàng đến thăm những bức tranh anh vẽ, cấm trèo dừa cùng mẹ anh để vặt những trái non làm cơm dừa mỗi sáng. Bố Diệp cấm. Ông đã tìm cho nàng một bầu trời khác, không nhiều sao và đom đóm, không có mùi thum thủm của bùn đục nơi bến sông, không có tiếng con chim tin tiếp mà là đáng tin, rất đáng tin, nên Diệp đã đi xa lắm.

Tiếng mẹ hỏi anh rằng Đắc dạo này ra sao? Về sáng bao giờ bà cũng không ngủ. Bà có thể lôi đủ thứ chuyện cổ kim xưa ra kể, Thời này, con nhớ lão Kim ngày đó chứ? Mẹ đã cất được cả cục tiền to lắm lão giấu dưới gối để vào đũng quần lót của mẹ khi lão trở ra từ rừng vàng.

Nhờ thế mẹ đã mua cho con rất nhiều bóng bay và kẹo đỏ, mẹ mua gạo, mua cả thịt, con biết không? Tiếng cười đùng đục của bà lẫn trong cả câu chuyện kể về bố anh, mũi ông ra sao, răng trắng thế nào, bắp tay tròn vo rám đỏ, và việc bà chuyển đến đây một phần vì ông đã chinh chiến ở nơi này, mùi ông ở đây, hơi thở ở đây, trong những cánh thư ông gửi về cho bà. “Kim Cúc yêu quý, bao đồng đội đã chết dưới tay anh mà anh không thể nào cứu được, bao dân thường anh đã đứng nhìn họ chết mòn mà không biết phải làm sao. Thuốc không có em ạ, đến dao mổ cũng chẳng còn chiếc nào…”. Ông khóc, những giọt nước mắt còn đọng trên từng trang viết, bà ấp nó vào ngực và cũng khóc.

Đắc hôm qua đã viết thư về, trong lá thư gần nhất và cuối cùng. Bố mày đã chết Thành ạ, vì di chứng hóa học. Mày có hai đứa em, kém mày tầm 5 và 6
tuổi, chúng giàu có và giỏi giang, nhưng không ai muốn nhận mày dù mày y nguyên chúng. “Mọi vàng”, chúng đã hét, “không thể, không thể”. Có thể nơi đó đã quá ám ảnh trong câu chuyện bố chúng kể chăng, hoặc chính nơi đó đã cướp đi ký ức của ông và những niềm vui, sự trong sáng và cả thể xác, nên không ai muốn nhắc lại và thừa nhận nữa.

Anh lặng lẽ cất lá thư đi, huýt một tiếng sáo dài vẫn điệu hát quen cũ kỹ và tươi vui: Này này cô em, ta yêu đời sống, em biết chăng em…

Mẹ anh nghe thấy liền bảo, ngày mai, con đưa mẹ ra mộ Diệp, mẹ muốn thắp hương cho nó, hai ngày nữa là đến giỗ nó, con nhớ trèo dừa hái mấy trái non mẹ muốn làm cơm dừa cúng nó nghe con...

Anh thấy lòng mình nấc lên nhiều nhịp, nghe rõ tiếng sóng biển vỗ vào nhau oàm oạp, tiếng còi tàu hút gió mãi khơi xa…

B.T
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.