Hôm nay,  

Từ cây mít bên mép hố bom

12/01/202400:00:00(Xem: 2828)

goc mit
 
Mấy cái rễ chết khô này là những gì còn lại của cây mít mà tự tay tôi trồng mấy chục năm trước, bên mép một hố bom. Chúng đã theo tôi qua chặng hành trình hơn bảy ngàn cây số từ một vùng quê Quảng Nam đến thành phố lớn nhất của nước Úc.

Thời chiến quê tôi là vùng đất không người và, có lúc, là vùng “tự do oanh kích”. Trở về đó sau tháng Tư năm 1975, khu vườn xưa của tổ tiên đã là một cái rừng rậm, màu xanh chồng lên màu xanh, mấy tầng, mấy lớp với những táng cây cao thấp chằng chịt dây leo, những chùm chìm bìm phủ từ trên xuống và những bụi đơm xôi đầy gai góc cố thủ bên dưới chờ chực cơ hội ngóc đầu lên, chỉ trừ màu đất sét đỏ quạch của cái hố bom sâu hoắm ở góc vườn, dấu tích của một trận oanh tạc cách đó ba năm, trong “Mùa hè đỏ lửa”.

Rồi thì cái hố ấy cạn dần. Đầu tiên là ngói gạch vỡ vụn từ căn nhà cũ đổ nát của tổ tiên mà anh chị em chúng tôi san xuống, sau đó là đất cát bồi tụ theo từng mùa mưa rồi, đến một lúc nào đó, khi cái hố bom đã đầy gần phân nửa, tôi ươm mấy hạt mít chung quanh để từng ngày, từng ngày, chứng kiến chúng nẩy nở, sinh sôi. Mấy năm sau, khi tôi đi xa hẳn, những cây mít ở lại bắt đầu kết trái rồi, mấy năm sau nữa, khi em tôi vào Sài Gòn lập nghiệp, gởi khu vườn cùng căn nhà làm nơi thờ tự trong bàn tay chăm sóc của một người bà con, chúng vẫn kiên trì bấu rễ vào cái hố bom mà ra hoa, cho quả.

Nhưng một thời gian sau nữa, cách đây mấy năm, cây mít của tôi bị bức tử, chết khô.

Nhưng nó không hề đơn độc. Cùng chung phần số là nguyên một hàng cây cao lớn, mạnh khỏe dọc theo ranh giới với khu vườn hàng xóm mà, theo giải thích của những người ở đó, là sự cạnh tranh ánh sáng của trời cùng dưỡng chất của đất từ bàn tay chủ nhân khu vườn liền kề, cái sự cạnh tranh vẫn đều đặn xảy ra ở miền quê thời này bởi thuốc độc giết cây của Trung Quốc đang bán ê hề ngoài chợ.

Tôi nghe lời giải thích này này hai năm trước, khi về quê chịu tang mẹ. Dưới những hạt nước bay bay của cơn mưa phùn tiết Xuân phân trong một chiều nhá nhem tối, tôi đứng ở góc vườn lặng nhìn những cái rễ mít chết khô lầm lũi an phận dưới cái hố bom đã cạn mà thảng thốt nhìn ra bóng dáng khẳng khiu của mình mấy chục năm trước, đang chênh vênh bên bờ mép nghiêng 45 độ của cái hố bom đỏ quạch màu đất sét, cái lưng khòm xuống, cái xẻng cùng mấy hạt mít trong tay… Ngay khoảnh khắc đó tôi nảy ra quyết tâm là, bằng mọi giá, phải mang chúng theo như một chứng vật lịch sử của riêng mình, dạy cho con tôi biết rằng đây là những cái rễ từ cây mít mà tự tay ba đã trồng. Tôi nhễ nhại mồ hôi lôi lên mặt đất. Tôi kỳ cạch rửa ráy, đẽo gọt. Rồi tôi nhờ một người thợ mộc can thiệp lần cuối trước khi sấy khô, tẩy trùng để có thể vượt qua hàng rào kiểm dịch của nước Úc.

Tôi kỳ công như thế bởi đó không chỉ là chứng vật của riêng tôi mà là chung của tất cả chúng ta. Từ dấu tích hoang tàn của sự hủy diệt bằng sức mạnh của một đế quốc, một siêu cường, cây mít đã vươn lên mạnh mẽ, đã đâm chồi kết trái nhưng rồi lại chết đứng giữa trời, như là Từ Hải, chỉ vì thuốc độc của giống bành trướng đang hung hăng háu đá như một thứ chuẩn siêu cường tập tành làm đại đế quốc.

Nếu lịch sử là chuyện đã qua thì chứng vật cho một chặng đời của tôi này còn có thể là “tương lai” của chúng ta, những người cùng chia sẻ cái “đại tự sự” kết tụ từ muôn vàn những câu chuyện lớn nhỏ khác nhau; từ huyền tích trăm trứng trăm con để gọi nhau là “đồng bào” đến những câu chuyện thấp thoáng bóng dáng lẫm liệt của Lữ Gia, Ngô Quyền, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung v.v khi những bậc anh hùng dân tộc này phản ứng trước sức ép của bọn xâm lược phương Bắc.
 
Mà đâu chỉ là những cây xanh, với cái bọn xâm lược này? Cả những con giun hiền lành, an phận thủ thường cày cuốc trong lòng đất cũng bị chúng lập mưu để tàn sát hàng loạt thì đây, rõ ràng, là một sự “truy sát” đối với tương lai. [1]
 
Bởi vậy, từ cây mít, con giun, tôi lại nghĩ về loài nai.

Nai là một trong những nguồn thức ăn ưa chuộng của loài hổ và, sau hàng ngàn năm tiến hóa, chúng vẫn tiếp tục ngờ nghệch làm mồi như một sinh vật mù màu, không nhận ra được màu xanh và đỏ. Dưới mắt nai, cây rừng xanh và da hổ nâu đã hòa lẫn vào nhau trong sắc xám nên, không cần phải ngụy trang, giống hổ chỉ cần bước khẽ và, đợi đến khi xáp lại thật gần, ở khoảng cách chưa tới mười mét, con mồi hiền lành ngơ ngác kia mới phát hiện được mối nguy thì đã quá muộn. [2]

Sau mấy ngàn năm sống chung với với thứ xóm giềng chuyên hành xử bằng luật rừng như thể là chúa sơn lâm, trong đó có một ngàn năm bị đô hộ, vậy mà, đến tận hôm nay, chúng ta vẫn hành xử như một dân tộc bị mù màu. Chúng ta, như đã kể ở trên, vẫn sử dụng thuốc độc của chúng hay chạy theo mấy đồng tiền vặt của chúng để tàn hại chính môi trường và nguồn sống của mình. Nhưng nếu hạng dân ngu khu đen ở dưới bị bệnh “mù màu” thì, ở trên, những chứa tước quyền hành đang bị “chứng” gì khi để những tình trạng như thế xảy ra, hết năm này sang năm khác? Họ, thậm chí, còn cong lưng theo những “dự án chung” và cong lưỡi theo những lời lẽ mỵ dân như là “vận mệnh” và “tương lai chung”?

Nếu có một thứ “vận mệnh” và “tương lai” chung thì đây, chúng đã biểu lộ ngay trong bộ rễ khô quắc từ cây mít bị đầu độc của tôi nên, do đó, cái chứng bệnh trong dấu hỏi trên, rõ ràng, không chỉ là khiếm thị mà là khiếm tư duy.

Nó cách khác, thẳng thắn, là bị đui, bị mù tận trong óc, trong đầu.

Tham khảo:

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi bị bắt tại huyện Tân Hiệp chiều ngày hai mươi, giáp Tết. Lý do, mang theo hàng không giấy phép. Thế là tiêu tan hết vốn lẫn lời mà tôi chắt chiu, dành dụm gần cả năm nay. Nhớ đến mẹ và gia đình trong những ngày Tết sắp tới, tôi vừa buồn vừa tức đến bật khóc. Xui rủi, biết trách ai. Tiễn, anh phụ lơ, đã cẩn thận cất dấu hàng cho tôi, vã lại anh cũng quá quen biết với đám công an trạm kiểm soát. Không ngờ chuyến nầy bọn công an tỉnh xuống giải thể đám địa phương, nên tôi bị “hốt ổ” chung cả đám. Đây không phải là lần đầu bị bắt, nhưng lại là lần đầu tiên tôi đi chuyến vốn lớn như vầy. Năm ký bột ngọt, năm ký bột giặt, hơn chục ống thuốc cầm máu và trụ sinh hàng ngoại. Bột ngọt, bột giặt không nói gì, nhưng hai thứ sau hiếm như vàng mà giới “chạy hàng” chúng tôi gọi là “vàng nước”. Nên thay vì đưa về khu tạm giam huyện chờ lập biên bản, hồ sơ xét xử tôi nghe bọn công an thì thầm, bàn tán giải thẳng về khám lớn tỉnh Rạch Giá.
Quỳnh Lâm báo tin sẽ đến Đức trong tuần lễ đầu tháng 10. Nisha vội vàng thu xếp “sự vụ lệnh“ để công du sang Đức. Nisha lo đi chợ sắm sửa đầy mấy tủ lạnh, tủ đá, để mấy cha con sống còn trong thời gian nữ tướng đi xa. Chúng tôi hồi hộp quá, ngày nào cũng thư từ, nhắn nhủ, dặn dò đủ điều tẳn mà, tẳn mẳn. Điện thư qua, về hoa cả mắt. Thư nào chúng tôi cũng nhắc nhở nhau giữ gìn sức khoẻ, vì đứa nào cũng “lão” rồi. Khi gặp nhau, tụi tôi nhất thiết phải đầy đủ tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện. Có hôm, đến trưa, chưa nghe tăm tiếng, tôi sốt ruột, xuất khẩu làm thơ... bút tre:
Sống ở đây an toàn và bình an gần như một trăm phần trăm trong hiện tại và tương lai, nhưng không thể bình thản hóa quá khứ. Cuộc chiến khốc liệt giữa thiên thần và ma quỉ luôn ám ảnh ông. Có những điều gì thao thức, âm thầm nghi hoặc, nhoi nhúc sâu thẳm trong ông. Lòng tin vào ông Gót có phần nào lung lay. Đông cảm thấy có lỗi khi nghi ngờ bố, người đã giúp đỡ, bảo vệ ông và Vá. Nhưng nghi ngờ là một thứ gì không thể điều khiển, không thể đổi đi, không thể nhốt lại. Nó vẫn đến, mỗi lần đến nó vạch rõ hơn, nhưng vẫn mù sương như đèn xe quét qua rồi trả lại sương mù.
Trâm gật đầu nhè nhẹ. Đoan nghĩ thật nhanh đến một cảnh diễn ra mỗi đầu tháng trong sân trường. Nơi đó, các sinh viên xúm xít cân gạo và các loại “nhu yếu phẩm”, mang phần của mình về nhà. Rồi thì trong khu phố, cảnh những người dân xếp hàng “mua gạo theo sổ” cũng diễn ra mỗi ngày. Nói “gạo” là nói chung thôi, thật ra trong đó phần “độn” chiếm đa số. Phần “độn” có thể là bo bo, có thể là bột mì, cũng có thể là khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô. Nồi cơm nấu từ gạo và một thứ khác được gọi là nồi “cơm độn.” Mỗi ngày hai bữa cơm độn. Bo bo thì quá cứng vì vỏ ngoài chưa tróc, nấu trước cho mềm rồi cho gạo vào nấu tiếp, trở thành một “bản song ca” chói tai. Khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô thường bị sượng, ghế vào cơm rất khó ăn. Chỉ có bột mì tương đối dễ ăn hơn, vì người nấu có thể chế biến thành bánh mì, nui hay mì sợi
Mùa đông, tuyết đóng dầy trên mái nhà. Ấy là lúc bà ngoại cũng lo là lũ chim - những con chim của ngoại - sẽ chết cóng. Nhưng bà không biết làm gì để cứu chúng nó. Ngoại đi tới đi lui từ phòng khách qua nhà bếp. Thở dài. Rên rỉ. Rồi lẩm bẩm, “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.” Bà ngoại tội nghiệp những con chim chết lạnh. Sinh nhật ngoại, chúng tôi chung tiền mua quà. Một con sáo trong chiếc lồng tuyệt đẹp. Bà ngoại cưng nó hơn cưng chị em tôi. Cho nó ăn, ngắm nghía bộ lông đầy màu sắc của nó. Chăm chú lắng nghe tiếng hót véo von lúc chớm nắng bình minh và buổi hoàng hôn nắng nhạt. Rồi một buổi sáng nọ tiếng chim thôi líu lo. Bà ngoại chạy ra phòng khách. Hấp tấp tuột cả đôi guốc mộc. Con chim sáo nằm cứng sát vách lồng. Hai chân duỗi thẳng. Cổ ngoặt sang một bên. Con chim của ngoại đã chết. Bà ngoại buồn thiu cả tuần lễ. Bố mẹ tôi bàn tính mua con chim khác. Bà gạt ngang.
Tôi là người viết báo nghiệp dư. Từ khi khởi viết vào năm 1959, tay cầm viết luôn là nghề tay trái. Tôi sống bằng nghề tay phải khác. Cho tới nay, nghề chính của tôi là…hưu trí, viết vẫn là nghề tay trái. Tôi phân biệt viết báo và làm báo. Làm báo là lăn lộn nơi tòa soạn toàn thời gian hoặc bán thời gian để góp công góp sức hoàn thành một tờ báo. Họ có thể là chủ nhiệm, chủ bút, tổng thư ký, thư ký tòa soạn hay chỉ là ký giả, phóng viên. Nhưng tôi nghĩ người quan trọng nhất trong tòa soạn một tờ báo là ông “thầy cò”. Thầy cò ở đây không có súng ống hay cò bóp chi mà là biến thể của danh từ tiếng Pháp corrector, người sửa morasse. Morasse là bản vỗ một bài báo cần sửa trước khi in.
Sáu tuần. Nàng đã đi ra khỏi mụ mị từ trong mối tình hiện tại của mình. Cô bạn gái hỏi "Tỉnh chưa?". Tỉnh rồi, nhưng tỉnh không có nghĩa không yêu anh ấy nữa, chỉ là không còn mụ mị mê muội nữa thôi...
Trong bóng tối dày đặc, dọ dẫm từng bước một, hai tay vừa rờ vào hai bên vách hang động, vừa quơ qua quơ lại trước mặt, dù cố mở mắt lớn, chỉ thấy lờ mờ, nhiều ảo ảnh hơn là cảnh thật. Cảm giác bực bội vì đã trợt té làm văng mất ba lô, mất tất cả các dụng cụ, thực phẩm và nước uống cần thiết. Bối rối hơn nữa, đã rớt chiếc đèn bin cầm tay, mất luôn chiếc đèn bin lớn mang bên lưng và máy liên lạc vệ tinh có dự phòng sóng AM. Giờ đây, chỉ còn ít vật dụng tùy thân cất trong mấy túi quần, túi áo khoát và hoàn toàn mất phương hướng. Chỉ nhớ lời chỉ dẫn, hang động sẽ phải đi lên rồi mới trở xuống. Trang nghĩ, mình có thể thoát ra từ lối biển. Là một tay bơi có hạng, nàng không sợ.
Cô người Nha Trang, lớn lên và đi học ở đó. Cô sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, mẹ cô đi dậy học, ông thân cô cũng là hiệu trưởng một trường trung học lớn ở Phú Yên. Năm 22 tuổi, cô học năm cuối đại học văn khoa Huế thì gặp gỡ chú Hiếu trong một dịp hội thảo sinh viên do các biến động thời cuộc miền Trung bắt đầu nhen nhúm. Chú Hiếu lúc đó đang theo cao học luật. Họ thành đôi bạn tâm giao tuổi trẻ, sau thành đôi uyên ương. Ba năm sau khi Trang vừa 25 tuổi, Hiếu đã nhậm chức chánh án tòa thượng thẩm.
Nhà trẻ kế bên bệnh xá. Trong góc một trại giam. Nhà trẻ có sáu đứa con nít. Bệnh xá có mấy bệnh nhân già. Coi bệnh xá là một tù nam nguyên là y tá ngoài đời. Coi nhà trẻ là một tù nữ án chung thân. Coi cả hai nơi ấy là một công an mà mọi người vẫn gọi là bác sĩ! Sáu đứa con nít đều là con hoang. Mẹ chúng nó là nữ tù bên khu B, đừng hỏi cha chúng đâu vì chúng sẽ không biết trả lời thế nào. Cũng đừng bao giờ hỏi mẹ chúng nó về chuyện ấy vì rằng đó là chuyện riêng và cũng là những chuyện rất khó trả lời. Thảng hoặc có ai đó được nghe kể thì lại là những chuyện rất tình tiết ly kỳ lâm ly bi đát… chuyện nào cũng lạ, chuyện nào cũng hay
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Ông Hải đứng trước của nhà khá lâu. Phân vân không biết nên mở cửa vào hay tiếp tục đi. Tâm trạng nhục nhã đã ngui ngoai từ lúc nghe tiếng chim lạ hót, giờ đây, tràn ngập trở lại. Ông không biết phải làm gì, đối phó ra sao với bà vợ béo phì và nóng nảy không kiểm soát được những hành động thô bạo.
DB Derek Trần: Tôi làm tất cả để bảo vệ cộng đồng mình trong vấn đề di trú

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.