Hôm nay,  

Về Uy Tín Của CDC và Việc Chích Booster Chống Covid Cho Trẻ Em

01/03/202400:00:00(Xem: 4018)

CDC
  
Trong một bài viết về chích ngừa tăng cường cho Covid mùa đông năm nay, tôi đã nhận xét về sự tương đối trong những khuyến cáo của Trung tâm Kiểm soát Bệnh Hoa Kỳ (CDC) về vấn đề chích ngừa Covid mũi booster. Riêng trẻ em thì sao? Khuyến nghị cho họ là gì? CDC khuyến nghị tiêm phòng cho trẻ từ 6 tháng tuổi trở lên. Mặc dù phân tích của CDC cho thấy trẻ em từ 5 đến 17 tuổi ít có khả năng mắc bệnh nặng do COVID hơn nhiều so với các nhóm tuổi khác, nhưng trẻ em đôi khi vẫn bị bệnh nặng, ngay cả những trẻ không có bệnh lý tiềm ẩn. (Phần lớn trẻ em từ 6 tháng đến 11 tuổi nhập viện từ tháng 1 đến tháng 6 năm nay (2023) đều chưa được chích ngừa Covid).
  
Theo CDC, cùng với những người lớn tuổi, trẻ sơ sinh dưới 6 tháng tuổi – còn quá nhỏ để tiêm chủng – có tỷ lệ nhập viện do COVID cao nhất. Vì vậy, cách tốt nhất để bảo vệ những đứa trẻ nhỏ nhất này là tiêm chủng cho những người xung quanh chúng. Chích ngừa Covid cũng giảm nguy cơ nghỉ học và giảm nguy cơ mắc bệnh COVID kéo dài (long Covid).
  
Không phải tất cả các chuyên gia đều đồng ý rằng cần phải chích liều vắc xin cập nhật này (booster) cho trẻ em. Có người thấy cần có thêm dữ liệu cụ thể về trẻ em và thanh thiếu niên. Có người nghĩ rằng hầu hết trẻ em đã được tiêm vắc xin COVID cơ bản (primary vaccines) và khỏe mạnh có thể sẽ không nhận được nhiều lợi ích hơn từ việc tiêm thêm một mũi nữa.
 
Giám đốc chương trình y tế công cộng (surgeon general) tiểu bang Florida, theo đường lối chống vắc xin của thống đốc DeSantis, lại khuyên người dưới 65 tuổi không nên chích mũi booster này. (Washington Post, 16 tháng 9); việc này làm giới y tế Hoa Kỳ “lo ngại”.
  
Phụ huynh nên bàn với bác sĩ của cháu nếu do dự về vấn đề này. Hiện nay, CDC cũng đang dự tính giảm thời gian cách ly cho Covid từ 5 ngày xuống còn 24 giờ nếu bệnh nhân không sốt và triệu chứng nhẹ và tiếp tục thuyên giảm.
 
Năm tháng sau bài viết trên và lúc nước Mỹ đang giữa mùa đông, theo một bản tin của tờ báo lớn của Mỹ New York Times, có vẻ như cả thế giới đều tránh né chích ngừa mũi booster Covid cho trẻ em, trái với lời khuyên của CDC. Vì đây là một vấn đề nhạy cảm, tôi xin dịch nguyên văn bài viết và chỉ thêm một vài giải thích ngắn giữa các dấu ngoặc để độc giả rộng đường suy luận, nhất là trong thời gian năm nay trước khi bầu cử tổng thống, những thế lực chính trị đảng phái có những lập trường đối nghịch về vấn đề chích ngừa và có rất nhiều tin giả, tin sai lạc về vấn đề này.
  
Dưới đây là bản dịch:
 
“The C.D.C., ignored”, by David Leonhardt, ngày 13 tháng 2 năm 2024
 
Phần lớn thế giới đã quyết định rằng hầu hết trẻ nhỏ không cần tiêm vắc xin tăng cường Covid. Điều đó đang xảy ra ở Anh, Pháp, Nhật Bản và Úc. Một số nước, như Ấn Độ, đã đi xa hơn. Họ nói rằng đối với những đứa trẻ khỏe mạnh về các mặt khác thậm chí không cần phải tiêm những mũi sơ khởi của vắc xin Covid. Ở Đức, các chuyên gia y tế công cộng không khuyến nghị tiêm vắc-xin cho bất kỳ trẻ em nào, kể cả thanh thiếu niên, trừ khi chúng có một bệnh nào đó làm chúng đề kháng yếu hơn. Các nhà khoa học ở các nước này hiểu rằng vắc xin Covid có hiệu quả cao. Nhưng các chuyên gia đã kết luận rằng lợi ích mang lại cho trẻ em thường không bù đắp được giá phải trả. Lợi ích rất khiêm tốn vì khả năng trẻ em bị bệnh nặng do Covid rất là ít và khả năng lây truyền vi rút từ chúng qua người khác ít hơn hơn người lớn. Giá phải trả bao gồm chi phí tài chính của việc tiêm chủng hàng loạt, khả năng tác dụng phụ của mũi tiêm sẽ khiến trẻ bệnh đến mức phải nghỉ học, khả năng rất nhỏ xảy ra các tác dụng phụ nghiêm trọng hơn và sự không chắc chắn cố hữu về tác dụng lâu dài.
  
Hoa Kỳ – như độc giả Mỹ có lẽ đến đây đã nhận ra trong bản tin này – là một ngoại lệ toàn cầu. C.D.C. kêu gọi tiêm nhắc lại (booster) cho tất cả trẻ em từ sáu tháng tuổi trở lên. Tuy nhiên, khuyến nghị đã không có mấy kết quả. Thay vào đó, hầu hết các bậc cha mẹ Mỹ đã chọn cách bác bỏ lời khuyên của C.D.C. Chỉ có khoảng 40% trẻ em dưới 12 tuổi đã được tiêm vắc-xin ngừa Covid và chỉ có khoảng 5% được tiêm vắc-xin tăng cường (booster). Tình huống này là một trường hợp nghiên cứu điển hình về những thiếu sót trong chính sách Covid của Hoa Kỳ: Cách tiếp cận nghiêm ngặt đối với một vấn đề mang nhiều sắc thái đã phản tác dụng, nuôi dưỡng sự hoài nghi về chuyên môn khoa học trong khi không làm được gì nhiều để cải thiện sức khỏe cộng đồng. Tiến sĩ Francis Collins, người từng đứng đầu Viện Y tế Quốc gia nay đã nghỉ hưu, thừa nhận vấn đề lớn hơn vào năm ngoái khi ông nói rằng các chuyên gia đã sai lầm trong thời kỳ đại dịch khi có “quan điểm rất hạn hẹp về thế nào là một quyết định đúng đắn”.
  
Việc đóng cửa trường học kéo dài hàng tháng gây tổn hại cho việc học tập của học sinh là một ví dụ. Các yêu cầu mang khẩu trang trong thời gian dài bị nhiều người lơ đi lại là một ví dụ khác. Một C.D.C tiếp tục khuyến nghị mâu thuẫn với thông lệ quốc tế – và bị hầu hết người Mỹ bác bỏ – đã trở thành một ví dụ khác nữa.
  
Thế nào mới hợp lý?
  
Tiến sĩ Sandro Galea, hiệu trưởng Trường Y tế Công cộng thuộc Đại học Boston, gần đây đã xuất bản một cuốn sách đưa ra phiên bản chi tiết của lập luận này. Cuốn sách có tựa đề “Trong giới hạn hợp lý” (Within Reason). Trong thời kỳ đại dịch, như Galea đã nói với tôi, các chuyên gia y tế đôi khi áp dụng “một hệ tư tưởng không phóng khoáng” (illiberal ideology). Hệ tư tưởng này tưởng tượng con người là những người robot chỉ tồn tại với mục đích duy nhất là giảm thiểu các nguy cơ nhiễm virus.
  
Trên thực tế, như Galea đã chỉ ra, xã hội thường xuyên quyết định rằng đến một mức nào đó, gia tăng thêm mức độ an toàn không còn là một việc đáng làm nữa. Chẳng hạn, người lái xe hơi và hành khách sẽ an toàn hơn nếu họ đội mũ bảo hiểm, nhưng ai lại đội mũ bảo hiểm khi ngồi trên xe hơi (trừ trường hợp xe đua vì khả năng tai nạn quá cao)?
  
Trong trường hợp của Covid, việc tiêm nhắc lại (booster) cho trẻ em thực sự có lợi ích. Một số lợi ích có lẽ còn lớn hơn đối với trẻ em Mỹ vì chúng có nhiều khả năng bị béo phì (làm giảm khả năng miễn nhiễm, cơ thể phòng thủ kém hơn) hoặc thiếu bảo hiểm y tế hơn trẻ em ở những nơi khác (so với các nước có bảo hiểm cho mọi người như Canada, Pháp, Nhật). Tiến sĩ Nirav Shah, phó giám đốc chính của CDC, nói với tôi khi bảo vệ khuyến nghị chích liều vắc xin tăng cường: “Mặc dù trẻ em có nguy cơ thấp hơn, nguy cơ đối với chúng không phải là số không”.
  
Nhưng cũng có những mặt trái của việc thúc giục các biện pháp y tế mà hầu hết mọi người đều phản đối, Galea lưu ý. Chỉ khi lợi ích của việc làm đó là lớn (như trường hợp nhận thức về việc hút thuốc trong thế kỷ 20) thì các chuyên gia mới nên cố gắng thay đổi suy nghĩ của mọi người.
  
Dữ liệu khoa học – và sự đồng thuận của các chuyên gia ở các quốc gia khác – khiến khó có thể tranh luận rằng lợi ích của việc chích liều vắc xin booster cho trẻ em là rất lớn. Tiến sĩ Peter Collignon của Đại học Quốc gia Úc nói với tôi: “Tôi không nghĩ ở Hoa Kỳ họ đã hiểu đúng phương trình rủi ro-lợi ích đối với trẻ em”.
  
(Dữ liệu của CDC cho thấy trẻ em có nguy cơ mắc Covid cao nhất là trẻ sơ sinh, những trẻ này không đủ điều kiện tiêm vắc xin ngay cả ở Hoa Kỳ vì hệ miễn nhiễm ở 6 tháng đầu đời không có khả năng đáp ứng với thuốc vắc xin Covid. Thay vào đó, chúng có thể được hưởng lợi từ việc tiêm phòng trước khi sinh của người mẹ.)
  
Galea tin rằng hậu quả lớn nhất đối với chính sách chích vắc xin booster Covid của Hoa Kỳ có thể là ảnh hưởng của nó đến uy tín của CDC. Khi những người vốn đã hoài nghi về lời khuyên của chuyên gia, giống như nhiều người Mỹ, thấy CDC nhấn mạnh vào việc áp dụng một loại vắc xin có lợi ích tương đối nhỏ, họ có thêm lý do để đặt câu hỏi về các hướng dẫn khác của C.D.C. chẳng hạn như tầm quan trọng cấp bách của vắc xin phòng bệnh sởi (measles, trong vắc xin MMR) và bạch hầu (diphteria) cho trẻ em. Galea nói: “Có một giá thật sự mà chúng ta phải trả nếu chúng ta không trung thực.”
  
Khi tôi hỏi các chuyên gia y tế công cộng về việc họ đang làm gì đối với con mình, họ có xu hướng thành thật. Hầu hết tất cả đều đã tiêm phòng Covid cho con mình, vì lợi ích của cả những đứa trẻ đó và những người khác. Đồng thời, một số chuyên gia nói với tôi rằng họ chưa chích booster cho con cái.
   
Tại sao? Những lợi ích có vẻ nhỏ đối với tất cả mọi người. Cái giá phải trả – như nỗi sợ kim tiêm của một đứa trẻ hoặc nghỉ học vì tác dụng phụ – cũng có vẻ nhỏ. Với một quyết định sát sao như vậy, những bậc cha mẹ hiểu biết sẽ đưa ra những quyết định khác nhau, và điều đó vẫn là chấp nhận được.
  
Có lẽ CDC sẽ có tác động lớn hơn nếu nó truyền tải một thông điệp thẳng thắn tương tự như vậy (thay vì khăng khăng yêu cầu chích booster cho mọi trẻ em).
 
Chú thích: Những câu trong dấu ngoặc là của BS Hồ Văn Hiền.
 
 
– David Leonhardt
Bác sĩ Hồ Văn Hiền dịch, 14/2/2024
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hiểu rõ về bảo hiểm, quyền lợi và cách sử dụng dịch vụ y tế là điều cần thiết để mỗi người có thể chủ động hơn trong hành trình chăm sóc sức khỏe cho bản thân và gia đình.
Vừa được hay tin nhà văn Doãn Quốc Sỹ đã ra đi trong sự tĩnh lặng của một tâm hồn lớn. Tâm hồn tồn trữ sự bình an của thiền thực dụng qua sự sinh hoạt hằng ngày như là “vô công dụng hạnh.”
Trong buổi điều trần tại Thượng Viện vào ngày 9 tháng 9 năm 2025 về vấn nạn tham nhũng trong khoa học (corruption of science), một nhóm nhân chứng đã trình bày một nghiên cứu chưa được công bố và đưa ra một lời tuyên bố hùng hồn. Họ cho rằng đây chính là bằng chứng quan trọng cho thấy vắc-xin làm tăng cơ nguy mắc các bệnh mãn tính ở trẻ em. Nghiên cứu này thậm chí còn sắp xuất hiện trong một bộ phim được quảng bá rầm rộ mang tên “An Inconvenient Study” (dự kiến phát hành vào đầu tháng 10 năm 2025).
Tại Detroit, thành phố từng là biểu tượng của ngành công nghiệp xe hơi Mỹ, một cuộc khủng hoảng thầm lặng đang diễn ra trong các trường học: hàng ngàn học sinh, từ những đứa trẻ mẫu giáo đến học sinh khối K12, thường xuyên nghỉ học. “Nghỉ học thường xuyên” (chronic absenteeism) tức là nghỉ học ít nhất 10% số ngày học trong năm (tương đương 18 ngày đối với năm học 180 ngày). Hiện tượng này đã gia tăng mạnh mẽ trong thời kỳ đại dịch COVID-19 và vẫn đang là một vấn đề nhức nhối.
Có một câu hỏi thường trực trong tâm trí người tiêu dùng là: “Nên chọn rau củ quả tươi hay đông lạnh?” Trái với quan niệm phổ biến cho rằng đồ đông lạnh chưa ít chất dinh dưỡng hơn đồ tươi, các nghiên cứu khoa học và nhiều chuyên gia lại cho thấy một bức tranh khác, phức tạp và thú vị hơn nhiều. Một nghiên cứu đã so sánh giá trị dinh dưỡng của nhiều loại thực phẩm như bắp, cà rốt, bông cải xanh (broccoli), rau cải bó xôi (spinach), các loại đậu, đậu xanh, dâu tây (strawberries) và dâu xanh (blueberries) ở hai dạng đồ tươi và đồ đông lạnh. Kết quả cho thấy lượng vitamin trong rau củ quả đông lạnh “tương đương hoặc thậm chí cao hơn” so với rau củ quả tươi. Các nghiên cứu khác cũng xác nhận rằng sự khác biệt lớn về hàm lượng dinh dưỡng giữa hai loại thực phẩm này chỉ xảy ra khi rau củ quả tươi bị mất dưỡng chất sau vài ngày để trong tủ lạnh.
Đi bộ là một trong những hình thức vận động đơn giản và phổ biến nhất để giữ sức khỏe. Thế nhưng, chỉ cần thử bước lùi vài bước, lợi ích thậm chí còn nhiều hơn. Đi bộ kiểu ngược về phía sau, đi lùi, hay còn gọi là “retro walking,” đang ngày càng thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu và thể thao. Không chỉ giúp cải thiện thăng bằng, phương pháp này còn kích thích những nhóm bắp thịt ít được sử dụng và thậm chí còn có tác dụng tích cực đến não bộ.
Sự sống trên Trái Đất tuy phức tạp nhưng lại được hình thành từ một số ít thành phần cơ bản. Chẳng hạn, DNA và RNA của chúng ta chỉ được cấu tạo thành từ năm nucleobase, trong khi khoảng 90.000 loại protein khác nhau trong cơ thể đều được tạo nên từ 20 loại axit amin. Mẫu vật mà tàu vũ trụ OSIRIS-REx đem về trái đất từ tiểu hành tinh Bennu cho thấy sự hiện diện của cả 5 loại nucleobase – adenine, guanine, cytosine, thymine và uracil, cùng với các chất khoáng chưa từng thấy trước đây trong đá ngoài vũ trụ. Kết quả nghiên cứu, được công bố trên tạp chí Nature Astronomy, còn cho thấy Bennu chứa nhiều loại muối khác nhau, vốn được cho là có vai trò quan trọng trong giai đoạn sơ khai của sự sống.
Dopamine, thường được mệnh danh là “hormone hạnh phúc,” từ lâu đã được xem như nguồn cơn của những cảm xúc vui vẻ, phấn khởi sau những lần mua sắm thỏa thích hay thưởng thức một tô phở ngon lành. Sự quan tâm đối với dopamine được thể hiện rõ ràng qua hàng ngàn clip trên TikTok, mọi người chia sẻ cách điều chỉnh dopamine, từ việc tìm cách tăng cường hoặc hạn chế dopamine hàng ngày, cho đến các khái niệm như “cao trào dopamine” (dopamine rushes), “thiếu hụt dopamine” (dopamine withdrawals), “cai dopamine” (dopamine fasts), hay “tái thiết lập dopamine” (dopamine resets).
Trong cuộc sống tất bật hàng ngày để mưu sinh, có người luôn thấy mình không có đủ thời gian để nghỉ ngơi và giải trí. Thậm chí có người làm ‘đầu tắt mặt tối’ cả đời mà vẫn không thấy đủ. Họ muốn có thêm thì giờ để làm những việc mình thích. Nhưng khổ nỗi, mỗi ngày chỉ có 24 giờ, mỗi năm chỉ có 12 tháng, và những người sống hơn 100 tuổi thì chẳng có mấy ai? Tuy nhiên, làm việc nhiều quá sẽ dễ đưa tới căng thẳng về thể chất và tinh thần để rồi kéo theo nhiều hệ quả tiêu cực, mà trong đó có việc sút giảm năng suất lao động và bệnh hoạn. Những nghiên cứu của y học ngày nay đã cho chúng ta thấy điều đó và khuyên con người nên có thì giờ cho sự nghỉ ngơi và giải trí.
Với lượng thông tin khổng lồ trong tầm tay, ngày nay chúng ta thường có xu hướng đọc lướt để tiếp nhận nội dung nhanh chóng. Nhưng các chuyên gia nghĩ gì về thói quen đọc này—và liệu bạn có nên thay đổi cách đọc của mình?


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.