Hôm nay,  

Hủ cộng: “Ô hay, bay vẫn…”

12/04/202400:00:00(Xem: 2368)

Hình minh họa
Hình minh họa
 
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!”
 
Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
 
Và một Tố Hữu oai phong, ngạo nghễ, theo “dáng đứng Cuba” :
Lởn vởn ngoài khơi, những bóng ma
Hai con tàu Mỹ ngó dòm ta.
Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!
Chẳng thấy Cu-ba đứng đấy à?
(“Từ Cu-ba”, 8.1964)

nên bây giờ, sống lại, nhà thơ biết nói cái gì khi người Cuba đang xuống đường thách đố bộ máy cai trị? [2] Sẽ im lặng, như đui, như điếc? Hay vẫn cố chấp, gàn nát như một tên “hủ cộng”? Hủ nho là theo Nho đến gàn nát. Hủ tây là theo Tây đến gàn nát. Thì hủ cộng cũng vậy, là gàn nát với thế tất thắng của lý tưởng trong cái thời mà tượng Vladimir Lenin chưa bị biến thành rác theo sự tan tành của khối cộng sản Đông Âu.

Dĩ nhiên là Tố Hữu không thể “tái lâm” nhưng thứ hạng gàn nát này vẫn, như đĩa, dai dẳng làm cho đất nước kiệt quệ và điếm nhục. Như đám hủ cộng ở Nghệ An, hiện đang tôn vinh thứ rác thải nói trên, một Lenin bằng đồng, những 4.5 tấn. [3]

Lenin thành rác là bởi, ở đâu có mặt hắn ta, là ở đó có đói rách, có chà đạp nhân quyền, có kỳ thị xã hội theo lớp lang phân hạng. Kể ra thì, sau cao trào “biến Lenin thành rác”, cũng có ngoại lệ ngược chỉ để, sau một thời gian ngắn, lại chứng minh cho cái “quy luật” vừa nêu. Như Venezuela, một bằng chứng sống, sờ sờ. Cường quốc dầu lửa này, sau khi tôn vinh rác với một tượng Lenin bề thế vào năm 2017, bị lao dốc thê thảm và, từ mấy năm nay, đã phá sản toàn diện khiến người dân, trong cảnh mù mịt tương lai, bị cuốn vào dòng di dân lậu, chầu chực ở biên giới Mỹ - Mễ chỉ để làm một công dân hạng hai của kẻ thù đế quốc. [3]

Và chúng ta, một trong những tỉnh nghèo nhất nước lại hì hục dựng tượng cho kẻ đã làm nghèo rất nhiều đất nước và, nay mai, nếu không có gì thay đổi, ông tổ của “chuyên chính vô sản” sẽ lởn vởn giữa thành Vinh như một bóng ma. Hủ cộng đến nước này thì vô phương, hoàn toàn hết thuốc chữa và chúng ta, cũng hoàn toàn bó tay, chẳng biết nói gì hơn ngoài việc mượn lời Tố Hữu: “Ô hay bay vẫn ngu hoài vậy!”

Mà không chỉ là thứ hữu hình, đồng, đá hay bê tông. Trong tư duy hủ cộng này thì đất nước còn không ngóc đầu nổi bởi những thứ “tượng đài” vô hình khác, như cái tượng “Nghệ thuật quân sự” trên báo Quân Đội Nhân Dân ngày 10/3/2024, với cơn bạo dâm “Nghệ thuật truy kích địch trong Chiến dịch Tây Nguyên”. [5]

Nhưng Tây Nguyên không phải là một tiền đồn biên ải, chỉ tập trung những tay súng chuyên nghiệp mà là cả một vùng dân cư rộng lớn. Khi “truy kích” cuộc rút chạy của một vùng miền như thế bằng các mũi tấn công gọng kèm, bằng những khẩu đội pháo binh có nghĩa là nhắm thẳng mặt nhân dân mà bắn, là trút thẳng đại pháo lên đầu cụ già, phụ nữ và trẻ em. Tháng Ba qua, đó đây, trên mạng xã hội, nhiều nhân chứng đã nhắc lại những ký ức kinh hoàng này với niềm đau đớn khôn nguôi vậy mà, vẫn, có kẻ, hí hửng tôn vinh là “nghệ thuật”.

Tôi từng nếm mùi “nghệ thuật” ấy rồi, vào hạ tuần tháng Tư năm 1975 trên xa lộ Vũng Tàu - Sài Gòn, gần Làng Cô Nhi Long Thành, nơi có trại tiếp cư với cả vạn người tỵ nạn từ miền Trung. Tiếng phản lực cơ gào thét trên trời cùng tiếng nổ đì đùng của đạn phòng không đã kích động cuộc rút chạy tập thể trên con đường mà, chỉ khoảng mười mấy phút sau, trở thành một tọa độ pháo binh. Và tôi, chính tôi, ngay trong những loạt pháo đầu tiên, đã chứng kiến một chiếc xe lam đông nghẹt người trúng đạn lật nghiêng, lăn mấy vòng từ con đường cao xuống cánh rừng cao su bên dưới như một cỗ quan tài tươi; rồi những chùm đạn nổ tung vào dòng người đang gồng gánh và bồng bế, hối hả nhắm hướng Sài Gòn chỉ bằng đôi chân: những thân thể ngã rạp, những cánh tay. cánh chân văng xa mười mấy thước cùng những tia máu phọt lên, bay bay theo đạn đạo cầu vồng. Nhưng tôi, cũng như bất cứ ai may mắn trong giờ phút đó, hoàn toàn không có thì giờ để rùng mình. Tất cả đều hối hả chạy, tỏa vào cách rừng cao su bạt ngàn hai bên, càng xa tâm điểm của cái “nghệ thuật truy kích” kia càng tốt.

Nhưng tôi phải nhân lên mấy vạn lần nữa thì mới đủ mức kinh hoàng như ở Tây Nguyên? Rồi phải nhân lên hơn bao nhiêu nữa thì mới đạt tới tầm mức khốc liệt của ba năm trước đó, ở Quảng Trị, trong “Mùa hè đỏ lửa”, nơi mà một phần của huyết mạch tổ quốc, Quốc lộ Một, bị chết tên “Đại lộ kinh hoàng” khi dày đặc những tử thi đen đặc màu tro than, xác cha hay xác mẹ chồng lên xác con, kéo dài những hai cây số?

Sự tàn khốc khiến xương sống phải nổi gai này làm tôi nghĩ đến trận chiến cảm động ở Đồng Tháp Mười ngày 17/4/1866, khi nghĩa quân của Thiên Hộ Dương “chống cự tới chết trong các ổ súng và đặc biệt nhắm vào lính Tây”. [6] Tại sao những dũng binh ấy không bắn vào lính Việt? Đây là một chọn lựa chiến thuật và họ chỉ đánh vào đầu của con rắn? Do lính Pháp trang bị đầy đủ hơn, phải hạ sát trước? Vân vân, nhưng, thể nào đi nữa thì, ít ra, ở đây người Việt đã không bắn vào người Việt, dù hai bên đều làm nghề cầm súng. Còn với cái “nghệ thuật” kia thì người Việt đã dùng súng, mà là súng to, tới 130 ly, nả vào đầu những người Việt không tất sắt trong tay trong đó có những cụ già, những bà mẹ, và những bé sơ sinh.
 
Thì cứ cho là tình thế khẩn cấp chiến tranh, bên nào cũng phải gấp rút quyết định khi thông tin hãy còn mập mờ nên, do đó, có thể lỡ lầm với những hậu quả cực kỳ to lớn. Nhưng sau trên dưới nửa thế kỷ thì, để thực sự hòa giải, để thực sự chữa lành vết thương như đang hô hào, ít ra kẻ thắng cũng phải sòng phẳng với lịch sử. Muốn chữa lành thì phải chẩn đúng bệnh. Muốn hòa giải thì phải bày tỏ thiện chí qua việc tôn trọng sự thật, phải trân trọng nỗi đau của phía bên kia. Một nửa sự thật sẽ không bao giờ là sự thật. Một nửa thiện chí cũng không bao giờ là thiện chí. Sẽ không bao giờ có sự hòa giải với một nửa sự thật và một nửa thiện chí.

Nói đến thiện chí hòa giải, chúng ta thường bảo nhau nên học tướng Mỹ Ulysses Grant khi viên Tư lệnh Bắc quân này nghiêm cấm binh sĩ ăn mừng vì đó là sỉ nhục, là đánh bồi vào vết thương tâm lý của bên thua trận. Nội chiến đã kết thúc thì điều cần thiết là phải chuyển hóa quyết tâm tiêu diệt đối phương thành nỗ lực hàn gắn để cùng nhau xây dựng đất nước. Quân Bắc đã không trừng phạt, không xem quân Nam là tội phạm.  Và quân Bắc đã cung cấp lương thực, bảo đảm tài sản cho quân Nam, không xem đó là chiến lợi phẩm. Chúng ta bảo nhau phải học người Mỹ nhưng, nếu ôn lại lịch sử của mình thì, ở tầm vóc có thể nhỏ hơn, cha ông chúng ta cũng từng cao cả như thế với Tôn Thất Hiệp, vị nguyên soái chỉ huy cuộc kháng cự của Đàng Trong khi nhà Trịnh đưa quân tấn công vào năm 1672. [7]


Đó là cuộc chiến thứ bảy, cuộc chiến dữ dội, gây thiệt hại nặng đến độ Trịnh Tạc – người được xem là nhà lãnh đạo anh minh của nhà Trịnh, là vì chúa duy nhất chứng kiến cả bảy cuộc giao tranh và, lần này, có sự chuẩn bị kỹ càng đến 10 năm trời với một lực lượng hùng hậu – không chỉ phải rút quân mà còn từ bỏ luôn ý định thôn tính Đàng Trong. Trong tư thế là người chiến thắng, Tôn Thất Hiệp, vị tướng trẻ chỉ mới 19 tuổi đã cầu siêu cho tử sĩ hai bên, đã trả tự do cho tất cả tù binh: ai muốn ở lại lập nghiệp sẽ được cấp đất khai khẩn, ai muốn trở về cố hương sẽ được cấp lương thực đi đường. Sự cao thượng này, so với những tướng tá đầu hai thứ tóc đang kiêu hãnh ưỡn ngực ra trước tượng đài vô hình “Nghệ thuật truy kích” thấm máu hàng vạn phụ nữ trẻ em, là cả một trời, một vực.
 
Với những đầu óc như chìm dưới vực đó chúng ta biết nên gọi họ là gì ngoài… hủ cộng? Mà, cũng trong trận chiến dữ dội năm 1672 đó, ngay trước mắt Nguyên soái Hiệp, từng diễn ra một hoạt cảnh bi hài y hệt cái cảnh nhắng nhít, lăng xăng và cù nhầy của giới hủ cộng hôm nay.
 
Tháng 10 năm 1672 -- bốn tháng sau khi hành quân và hai tháng sau trận mở màn với những trận đánh giằng co, chết chóc vô số kể -- Nguyên soái Trịnh Căn đã phái sứ giả đến trước lũy Trấn Ninh để cù nhầy cãi cọ với đại diện của Nguyên soái Hiệp, Cai hợp Tú Minh, về “chính nghĩa phù Lê” của mình. Tường thuật việc này, Đại Nam Thực Lục Tiền Biên chỉ ghi ngắn gọn như việc nhận sắc phong, chuyện phù Lê, hay “những việc xảy ra đời Chính Trị và đời Hoằng Định” nhưng chúng ta có thể hình dung một trận võ mồm cực kỳ vô bổ, liên quan đến những chuyện của 130 năm trước giữa một tình thế cực kỳ khẩn cấp. Nó vô bổ đến mức độ Cai hợp Tú Minh phải nổi cáu, tuyên bố đã đưa quân đến thì muốn đánh hãy cứ đánh, đừng có mà lý sự cù nhầy. [8]

Và bây giờ là những lời lẽ cù nhầy của đám hủ cộng nhằm bảo vệ “chính nghĩa” của mình. Đất nước đang đối mặt với những thách thức cực kỳ to lớn, đang nín thở trước những chọn lựa chênh vênh giữa hai bờ sinh - tử thì chúng, trong diễn ngôn, vẫn cù nhầy với cái “dáng đứng Cuba” ngày nào. Chúng cù nhầy trên Nhân Dân, trên Tạp chí Cộng Sản, trên Quân Đội Nhân Dân v.v. . Chúng nhai lại trên mục “Xã luận”, “Quan điểm”, “Chống diễn biến hòa bình” hay “Nghệ thuật quân sự” v.v. của mấy cái loa phát ngôn rẻ tiền ấy. Và chúng còn cù nhầy cách trơ tráo và vô liêm sỉ hơn nữa trên mặt trận du kích của thế giới ảo, với đội ngũ “dư luận viên”, cái chiến thuật học mót theo binh đoàn “Ngũ mao quân” của Bắc Kinh.
 
Càng chứng kiến cái cảnh cù nhầy này, tôi càng nghĩ đến tâm sự bi phẫn của cụ Hồ Tá Bang ngày nào. Chủ trương tự cường để độc lập, nhà duy tân họ Hồ đã góp tay thành lập nhiều tổ chức kinh tế, văn hóa và giáo dục; từ Liên Thành thương quán để gây quỹ và tạo việc làm cho nhân dân đến Liên Thành thư xã để truyền bá sách báo có nội dung yêu nước; đến Dục Thanh học hiệu để mở mang dân trí và kích thích lòng yêu nước. Nhà duy tân này cũng là người đã cho Nguyễn Tất Thành một chân dạy học tại Dục Thanh trước khi sắp xếp cho thanh niên này  tìm đường sang Pháp mà không ngờ là, mấy chục năm sau, anh ta lại trở về với cái họ Hồ của mình rồi, mấy chục năm sao nữa, cứng nhắc theo con đường cộng sản để thẳng tay dẹp bỏ những tổ chức có chức phận làm đất nước giàu mạnh lên, những “thương quán”, những “thư xã” và những “học hiệu” tư nhân. Như thế bây giờ, liệu, nếu sống lại, cụ sẽ tiếp tục phẫn nộ: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" hay không?

Với cụ, có lẽ, cũng không cần thêm thắt “hủ cộng” bởi bọn này, suy cho cùng, cũng chỉ là một thứ “hủ tây” bởi đã mê tín các ông Tây Karl Marx hay Lenin. Chúng mê tín đến mức, dẫu đã vinh danh lãnh tụ của mình là “cha già dân tộc”, vẫn không chịu tống táng “cha già” theo nghi lễ dân tộc. Mà rập khuôn cái kiểu ma chay nồng nặc mùi thuốc sát trùng của ông Tây Lenin ở tận nước Nga.

Lenin xương thịt ấy bây giờ, sau một thế kỷ lạnh lẽo, đã “hủ nát” bao nhiêu để phải nặn sáp thế vì? Không ai biết rõ nhưng, cứ theo “tin mật” của Trung Quốc vào năm 1976, tức chỉ sau có 7 năm, cái lỗ mũi và chòm râu của “cha già” đã không còn nữa, phải dùng sáp thay thế. [9] Từ đó đến nay cũng đã gần nửa thế kỷ và “hàm lượng sáp” trong thi hài đó đã tăng lên bao nhiêu? Đó, hẳn nhiên, là “tin mật” chúng ta khó mà biết rõ nhưng, có một sự thật mà, nếu nghĩ kỹ, ai cũng sẽ nhận ra thật rõ: cái thể chế mà “cha già” gầy dựng nên cũng y hệt như cái xác chết của ông ta, chỉ có thể tồn tại bằng thuốc sát trùng và ngụy trang bằng những lớp sáp thế vì.
 
Thể chế đó, kể ra, cũng khá màu mè nhưng đó chỉ là những lớp sáp tô màu thiếu thực chất, phải trả giá rất đắt bởi đã bán rẻ tương lai của dân tộc qua những khoản nợ khổng lồ. Và sau lớp phấn son màu mè này là một không gian bí bách của thuốc sát trùng hình thành từ những công cụ trấn áp cùng những điều luật ngang trái, tùy tiện và duy ý chí. Thể chế đó, như thế, có khác nào một hệ thống đã bị “chết lâm sàng” bởi, sau ba phần tư thế kỷ cầm quyền, đã đẩy dân tộc vào tình trạng tuyệt vọng, không thể tìm thấy tương lai ổn định ngay trên tổ quốc của chính mình. Mơ ước lớn nhất của người Việt bao  nhiêu năm nay -- kể cả những thành phần cầm quyền, đặc quyền đặc lợi -- là gì nếu không phải là thôi làm người Việt để làm công dân một nước khác?
 
Thành tích của cả ba phần tư thế kỷ chỉ là một cái xác ướp mà vẫn cù nhầy về “lý tưởng cộng sản” thì là thứ hạng gì, nếu không phải là hủ cộng? Mà mê muội tin tưởng chúng thì lại, như Tố Hữu đã có lời, khác nào cái thứ loại “ngu hoài”?
10.4.24
 
 
 
Chú thích & tham khảo:
 
  1. https://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=1559&rb=0504
  2. https://edition.cnn.com/2024/03/18/americas/cuba-protests-food-economy-intl-latam/index.html
  3. https://tuoitre.vn/nghe-an-se-co-tuong-le-nin-bang-dong-nang-4-5-tan-20240403155643239.htm
  4. https://www.telesurenglish.net/news/Venezuela-Unveils-Lenin-Bust-in-Honor-of-100-Years-of-Bolshevik-Revolution-20171113-0019.html 
  5. https://www.qdnd.vn/quoc-phong-an-ninh/nghe-thuat-quan-su-vn/nghe-thuat-truy-kich-dich-trong-chien-dich-tay-nguyen-767998 
  6. Tại Chí Đại Trường (2011), Người lính thuộc địa Nam kỳ (1861- 1945), Nhã Nam &NXB Tri Thức, trang 57.
  7. Tên thật Nguyễn Phúc Thuần (1653 – 1675), con thứ tư của chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần. Thời Minh Mạng có lệ cải họ Tôn Thất cho các hậu duệ chi thứ nên chuyển thành Tôn Thất Hiệp. Năm 1973 ông đi tu, nhưng hai năm sau thì qua đời,
  8. Đại Nam thực lục tiền biên, quyền V trang 86. Dẫn theo Đại Nam Thực Lục Toàn Tập. tập 1, bản dịch của Viện sử học, NXB Giáo dục
  9. Li Zhisui (1994) The Private Life of Chairman Mao: The inside story of the man who make modern China, Random House, trang 22-23.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.