Hôm nay,  

Đường bộ vượt biên

19/04/202417:14:00(Xem: 4668)
Truyện

boat-people 1

Tôi bán hàng giải khát trước cổng nhà máy, khách hàng là những công nhân, bộ đội và cán bộ trong nhà máy. Tôi là “mụ” bán hàng “phản động” luôn tơ tưởng đến chuyện vượt biên. “tri kỷ” của tôi có chị Ky buôn bán ở xa cảng miền Tây, nghề mới của chị sau cuộc đổi đời 1975, trước kia chị là nhân viên một ngân hàng quận Gò Vấp.  Chị Ky là hàng xóm, hôm nào ghé quán tôi không chỉ để uống ly đá chanh, uống ly cà phê mà cũng là dịp cùng tôi  tâm tình than thở cuộc sống dưới thời xã hội chủ nghĩa, mơ ước chuyện vượt biên.
Một hôm chị Ky ghé vào quán vui mừng báo tin con gái chị đi cùng với em gái chị ở Xóm Mới vượt biên đường bộ từ Campuchia sang Thái Lan êm ru trót lọt chỉ trong vòng 3 tuần lễ, dân Xóm Mới tin tưởng đường dây tổ chức vượt biên này lắm, nhà nọ đi được giới thiệu nhà kia, tất cả ba bốn chuyến đều thành công.
    Người tổ chức là “Anh Minh bộ đội ”. Anh Minh người miền Bắc, là bộ đội từng đóng quân ở Campuchia nên anh Minh rất rành đường đi nước bước và quen biết nhiều, những chuyến xe chở khách vượt biên anh Minh đều “mua” bến bãi cả, thậm chí nếu bị lính Miên bắt anh Minh vẫn có thể “chạy” ra. Cuối cùng chỉ cần vượt qua một eo biển nhỏ  là sang đất Thái.
    Nghe chuyện vượt biên là tôi mê liền, lại là đường bộ tôi càng mê vì tôi tin là an toàn hơn đường biển, nhưng tôi hơi khựng lại, vụ này vẫn phải đi qua biển. Chị Ky thản nhiên:
    – Chỉ một khúc biển nhỏ thôi, thuyền anh Minh chở người sang đó và quay thuyền về ngay như đi chợ ấy mà.
    Nghe thế tôi hào hứng muốn cho Thoa đứa em gái áp út đi dù cha và các em tôi đang có giấy tờ bảo lãnh đi Mỹ. Tôi sốt ruột, đợi chờ bảo lãnh lâu quá, phí phạm thời gian tuổi trẻ của Thoa, mà đi vượt biên dễ dàng như thế này, không phải trả trước đồng nào tội gì không thử, nếu chuyến đi không thành công thì Thoa về nhà lại chờ đợi bảo lãnh, chẳng sứt mẻ gì. Tối về tôi bàn với bố và các em, tôi nói đường dây tổ chức rất tốt, nhất là đường bộ không có mưa bão sóng gió hiểm nguy, không lo hải tặc cướp bóc. Bố tôi nói nếu Thoa đồng ý đi thì bố cũng tán thành, Thoa nghe tôi ca tụng chuyện vượt biên ngon lành  nó đồng ý liền, cứ làm  như sắp được “du lịch” Campuchia. Thế là tôi nhờ chị Ky giới thiệu “Anh Minh bộ đội”.
    Anh Minh đến quán như một người khách vào uống nước nhưng chúng tôi đã trao đổi chuyện trò. Giá cả là 3 cây vàng, đúng như chị Ky nói  không phải trả trước xu nào, khi tôi nhận được tin nhắn của người thân đã bước chân sang đất Thái Lan thì mới chung tiền. Tôi kỳ kèo trả giá mỏi miệng từ 3 cây vàng xuống…1 cây vàng rồi nhúc nhích lên từ từ tới 2 cây rưỡi. Anh Minh sốt cả ruột:
     – Tổ chức một chuyến vượt biên là bao công phu, bao tốn kém mà chị mặc cả như mua con cá bó rau ngoài chợ.
    – Tại tôi quen trả giá khi đi chợ rồi, đi vượt biên cũng có quyền trả giá chứ anh.
Cuối cùng anh Minh chịu bớt 5 chỉ vàng. Tôi hân hoan nghĩ thầm “Anh Minh chắc giá thế, là tiền nào của nấy” chuyến vượt biên sẽ an toàn cao.
 
Thoa đã sửa soạn vài thứ đồ dùng tối cần thiết cho chuyến đi vượt biên . Tôi đưa cho Thoa một chỉ vàng mà tôi đã thuê anh thợ bạc ở Xóm Mới  cán mỏng ra làm mấy miếng và vài cục gum để mang theo, khi nào bắt đầu vào cuộc hành trình có vẻ gian nan thì nhai gum ra và dán dính những miếng vàng này vào trong mái tóc để tránh bị rơi rớt và tránh cả kẻ cướp. Nghĩ tới phải qua một khúc đường biển mới sang đến đất Thái tôi liền tức tốc đi mua một cái phao nhỏ và dặn Thoa, tôi nói chung chung, kiêng cử không dám nói đến cảnh nguy biến nước tràn vào thuyền vì sợ bị xui xẻo:
    – Khi nào… cần thiết thì thổi phao lên mà…xài. Nếu Thoa không đủ sức thổi cái phao thì nhờ mấy đàn ông chung chuyến thổi giùm.
    Nhưng Thoa nghĩ sao nói vậy:
    – Chị ơi giây phút đắm tàu thì ai rảnh mà thổi phao giùm mình? Có khi họ cướp cả phao của em luôn, có khi chưa kịp thổi phao thì nước đã cuốn phăng cả người và phao ra biển rồi.
    – Ấy chết em đừng nói những điều ghê gớm ấy, thuyền chỉ đi qua một eo biển nhỏ …êm đềm thôi mà.
    Tôi nào biết eo biển nhỏ ấy ra sao, chỉ nói đại cho xong, tuy trấn an Thoa thế mà lòng tôi càng thêm lo, tôi bắt Thoa thực tập thổi cái phao, nó phồng mang phồng má lên thổi mãi cũng xong.
    Gia đình chúng tôi có 2 căn nhà, một căn trong xóm để ở và một căn ngoài mặt đường là nơi kinh doanh quán cà phê giải khát bấy lâu nay. Sau biến cố buồn riêng mẹ mất và biến cố buồn chung tháng Tư 1975,  cha con, chị em chúng tôi ở chung nhau, đùm bọc lẫn nhau.
    Tuy hai chị em nôn nóng chuyến vượt biên nhưng hôm chồng tôi từ nhà trong chở Thoa ra điểm hẹn ở bến xe Bà Hạt để khởi hành sang Campuchia tôi không dám ở nhà vì tôi biết giây phút tiễn đưa này tôi sẽ không chịu nổi, vội vàng đội chiếc nón lá ra quán giải khát dù hôm nay tôi chẳng còn lòng dạ nào mà bán hàng, vừa đi tôi vừa khóc, nhờ đội nón lá nên hàng xóm không ai biết tôi đang khóc. Ở nhà trong Thoa cũng khóc và chào tạm biệt mọi người, thằng Bi con tôi nằm cuộn chăn trong giường khóc nức nở, Dì cháu cách nhau 9 tuổi, dì  là người từng bồng bế cháu khi nó còn bé nên hai dì cháu  thân nhau lắm. Cuộc chia tay đầy nước mắt liệu có là điềm… xui xẻo gì không?
    Tôi ngồi thẫn thờ ngoài quán nước mà tưởng tượng suy đoán ra từng giai đoạn một: Giờ này Thoa đang ngồi trên chuyến xe đò Bà Hạt. Giờ  này xe đò đang chạy đến Mộc Hóa Long An. Giờ này Thoa sang tới đất Campuchia. Giờ này Thoa …đang ở đâu?
    Chiều tối tôi dọn hàng về nhà trong xóm, thấy đôi dép Thoa còn để trước cửa tôi lại khóc òa, đôi dép đây mà Thoa thì đi xa. Ôi, giá mà Thoa vượt biên hụt trở về nhà ngay lúc này chắc tôi sẽ mừng vui hơn là thất vọng nữa đấy.
    Đã hai lần tiễn hai thằng em đi vượt biển, đứa đến Thái Lan đứa đến Mã Lai, nghe kể lại những ngày hãi hùng lênh đênh trên biển gia đình tôi sợ biển quá rồi, nay Thoa đi vượt biên bằng đường bộ thì đỡ lo hơn. Người đi cảm giác lo lắng hồi hộp bao nhiêu thì người ở nhà cũng bấy nhiêu. Xóm tôi có mấy vụ vượt biển thất bại đau thương, những chuyến tàu bặt vô âm tín, bác hàng xóm một lúc mất mấy đứa con, bác gầy sộc hẳn đi, buồn thảm, phờ phạc thất thần trông bác như một bà điên.
 
Ngày từng ngày trôi qua, tôi ăn không ngon ngủ không yên. Tôi chờ tin anh Minh, chờ bóng hình anh cứ như là chờ người yêu. Sau ba tuần thì anh Minh bộ đội đến quán nước gặp tôi, anh đến là có hi vọng có tin vui rồi. Tôi luống cuống pha vội cho anh ly cà phê đá mang ra bàn, anh đưa tôi một mẩu giấy nhàu nhòe Thoa viết vài chữ như sau: “Chị Thanh ơi, em vẫn bình yên”.
    Trước khi Thoa đi chị em tôi đã có 3 mật hiệu để báo tin về nhà:
    Mật hiệu ” Ba ơi, con vẫn bình yên” là an toàn 100%  nhà cứ việc trả vàng cho anh Minh.
    Mật hiệu ”Chị Thanh ơi, em vẫn bình yên” là 50/50. Tùy ..
    Mật hiệu “Anh Thu ơi, em vẫn bình yên” là xấu nhất, bị lừa hay chưa đến Thái Lan. Không trả.
    Tôi nghi ngại hỏi anh Minh:
    – Nghĩa là hiện nay em tôi cũng như khách trên chuyến vượt biên đang ở trên đất Thái Lan?
    – Phải. Chúng tôi đã làm xong nhiệm vụ giao ước. Bây giờ xin chị trả chi phí 2 cây rưỡi vàng.
    Tôi trì hoãn:
    – Hẹn anh ba ngày nữa tới đây. Tôi cần bàn với gia đình.
    Buổi tối về nhà trong, gia đình tôi cùng quây quần bàn bạc, nửa vui nửa lo cái ám hiệu “ba phải” 50/50 kia. Có nghĩa là gì? Không hoàn hảo nhưng cũng không quá xấu? Nếu không giao vàng cho người ta thì mình thành thất hứa. Nếu giao vàng mà Thoa chưa đến nơi thì coi như mất toi món tiền lớn.
    Bố tôi quyết định bảo tôi:
    – Làm người phải có chữ tín. Con cứ giao vàng cho anh Minh. Mật hiệu lửng lơ thế cũng tạm coi như an toàn rồi. Chứ chờ Thoa đến Thái ổn định viết thư về thì lâu lắm.
    Ba ngày sau anh Minh đến quán, tôi trao đủ 2 cây rưỡi vàng cho anh, mặt anh tươi rói nhưng vẫn than thở:
    – Không phải ai cũng tử tế sòng phẳng như chị, nhiều người còn đang hẹn chày hẹn cối khi nào con em họ tới Thái Lan gởi thư về có đóng dấu bưu điện Thái Lan họ mới chồng vàng cho tôi.
    Anh Minh ra về, anh khen tôi tử tế trả tiền sòng phẳng mà chẳng bớt thêm cho tôi đồng nào trong khi mấy người kia đang lấy cớ quỵt tiền công anh.
 
Gần 2 tháng sau thì tôi nhận được thư Thoa gởi từ trại Panatnikhom Thái Lan, có đóng dấu bưu điện Thái Lan đàng hoàng, tôi tự hỏi không biết giờ này anh Minh có đòi thêm được người nào không? Hay họ lại hẹn chày hẹn cối tiếp khi nào con em họ qua tới Mỹ gởi thư về có đóng dấu bưu điện Mỹ mới chịu trả tiền?
    Thoa đã ổn định trong trại tị nạn do cao ủy phụ trách, gia đình tôi yên tâm. Lần lượt Thoa viết thư về kể mới biết cuộc vượt biên đường bộ cũng đầy hiểm nguy, mỗi một bước chân đi là một bất trắc đang đón chờ, anh Minh chẳng ba đầu sáu tay, anh Minh chẳng là thần thánh phù phép lo hết được khi qua những trạm lính Miên, khi băng rừng xuyên đêm và chỉ một khúc đường biển mà thật khủng khiếp. Từ thành phố cảng Kompong Som, là thành phố cảng đẹp nhất của Campuchia nhưng thuyền chở khách vượt biên của anh Minh phải tìm một “hóc bà tó” nào đó của biển bên này mà lén lút vượt qua để sang bên kia vùng biển Tha Luông tỉnh Chad của Thái Lan, nào thuyền có “hiên ngang”  cặp bến biển Tha Luông như ước mong, họ chở khách ra giữa dòng, đậu lại lửng lơ con thuyền không bến. Nơi đây họ yêu cầu mọi người viết tin nhắn về cho gia đình rồi đợi chiều tối mới đi tiếp. Mọi người trên thuyền như cá nằm trên thớt họ bảo gì nghe nấy dù chỉ…sắp sửa đặt chân lên đất Thái. Đó là lý do Thoa viết mật mã “nửa nạc nửa mỡ.”
    Họ đổ khách vào một hòn đảo đá ong lúc 7 giờ chiều. Họ chỉ chỏ bờ Thái bên kia rồi vội vàng quay thuyền trở về đất liền Campuchia. Mọi người nhìn xa mờ thấy một giải đất dài nên cũng tạm yên tâm, tưởng có thể lội bộ tới, nào ngờ chưa biết tính sẽ lội bộ thế nào thì nước thủy triều bắt đầu dâng lên trong vòng một tiếng đồng hồ nước từ từ ngập phủ đảo, lên tới chân, tời đầu gối, tới đùi mọi người, cứ cái đà nước dâng thế này thì cả bọn sẽ bị nhấn chìm trong nước biển. Mọi người kêu la khóc lóc cầu nguyện.
    Chẳng lẽ cả đám chịu trận chờ chết thảm cùng nhau, anh Phương một người biết bơi tình nguyện nhảy xuống biển để bơi sang bờ Thái hầu tìm người đến cứu, nhưng anh ta vừa thò chân xuống nước đã kinh hãi vì nước quá sâu, nếu không đủ sức bơi sang bờ kia thì sẽ chết chìm như chơi. Lúc này Thoa nhớ tới cái phao cá nhân của mình liền đưa ra nhờ cánh đàn ông khỏe thổi phao cho căng phồng, đưa phao cho anh Phương  Thế là anh Phương chòang cái phao vào nách yên tâm nhảy xuống biển bơi đi thật nhanh, khi anh sang tới bờ bên kia hình bóng anh xa tít mù khơi, thì ra nhìn tưởng gần nhưng đi rất xa. Nếu không có cái phao thì anh Phương không đủ sức bơi và chết chìm trước khi thấy bến bờ Thái.
    Anh Phương đã đi tìm gặp dân ở gần đó nhờ họ mang thuyền ra cứu mọi người trên đảo đá  ong. Họ chẳng tử tế cứu giùm, mà phải trả công bằng vàng, trong giây phút tử sinh ai dấu vàng ở đâu cũng moi ra trả chủ thuyền để mà sống sót, một vài người thật sự không có vàng thì mượn hay đi ké theo người có vàng cũng xong.
    Những lá thư, những điều Thoa kể làm tôi kinh hãi và hối hận vô cùng, chính tôi đã có ý tưởng cho Thoa đi vượt biên, chính tôi đã nghe chị Ky kể chuyện vượt biên đường bộ mà mê tơi lên, cứ tưởng anh Minh tài ba, chở người vượt biên nhởn nhơ trên các nẻo đường Campuchia và bước chân sang Thái Lan như khách lãng du. Nếu Thoa có mệnh hệ nào thì tội của tôi to như cái đình và chắc tôi sẽ khổ đau điên dại giống như bác hàng xóm kia.
    Sau vài ngày, sau vài thủ tục khai báo tại trại nhỏ, cả đám được chuyển đến trại tị nạn lớn. Tại đây Thoa mới biết thời gian này trở đi sẽ có cuộc thanh lọc ai đủ tiêu chuẩn đậu thanb lọc mới có cơ hội đi định cư nước thứ ba.
    Người mới đến hỏi han người đến trước, truyền tai nhau những kinh nghiệm, tô vẽ cho mình một lý lịch gay go, một cảnh đời bầm dập để khai với cao ủy tị nạn. Còn Thoa chẳng tìm ra cớ gì đành khai thành thật vì chán chế độ cộng sản muốn tìm cơ hội tiến thân nơi đất nước tự do dân chủ hi vọng họ sẽ cảm thông cho đậu thanh lọc.
    Cuối cùng sau gần 3 năm qua bao trắc trở Thoa may mắn đậu thanh lọc và chờ đợi hơn một năm sau mới được đi định cư nước thứ ba như một phép màu vì có nhiều người với lý lịch rõ ràng là lính Việt Nam Cộng Hòa, là dân “phản động” từng bị chính quyền cộng sản Việt Nam bắt đi tù, từng bị trả thù còn bị rớt thanh lọc chờ ngày hồi hương.
    Sự may mắn của Thoa nhờ công của người này người kia, họ chỉ dẫn, họ giúp đỡ, họ cảm thương và biết đâu nhờ chút tử tế, chút điều lành của gia đình tôi trong đó. Gia đình tôi đã giữ chữ tín, chồng vàng đầy đủ cho anh Minh như đã giao ước và nhờ cái phao của tôi bắt Thoa mang theo, cái phao đã cứu sống mấy chục mạng người trên hòn đảo đá ong khi nước thủy triều dâng cao, họ không chết chìm cũng chết khát chết đói vì chẳng ai biết mà đến đây cứu họ.
Nhưng trên hết là nhờ trời Phật, thương đế đã ban cho gia đình tôi ơn phước này.
    Thế là gia đình tôi đã tham gia vượt biên đủ cả  đường biển và đường bộ, ngoài ra còn đi chính thức bằng đường bay. Sau khi Thoa đi định cư, vài năm sau đó gia đình chúng tôi cũng lần lượt sang Mỹ định cư theo diện HO và ODP đoàn tụ gia đình.
    Chị Ky “tri kỷ” hàng xóm của tôi được con gái bảo lãnh sang Mỹ đoàn tụ. Chúng tôi lại là tri kỷ của nhau trên đất Mỹ, cùng vui hưởng cuộc sống văn minh tự do với bao điều mà ngày xưa còn ở Việt Nam chúng tôi đã từng khao khát chờ mong.
 

 –  Nguyễn Thị Thanh Dương

(Feb. 22, 2024)

Ý kiến bạn đọc
20/04/202423:02:00
Khách
Bai viet hay , Nen doc
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.