Hôm nay,  

Tình Bạn Lính Xưa

26/04/202400:00:00(Xem: 3803)


1a 

 

Mỗi 30 tháng 4 là mỗi năm xa hơn ngày đó, 1975, thêm một bước nữa xa hơn, đi vào dĩ vãng. Hầu hết những người trực tiếp tham gia vào cuộc chiến trước 75, nay đã vắng mặt. Non nửa thế kỷ rồi còn gì. Khi không còn ai nữa, không hiểu những thế hệ trẻ tha hương sẽ nhớ gì? Một thoáng hơi cay?
 
Có khi nào bạn đọc ngồi một mình chợt hát lên bài quốc ca, rồi đứng dậy, nghiêm chỉnh chào bức tường, thằng cháu nhỏ thấy được, cười hí hí. Ông ngoại mát rồi.

Trí tưởng tượng của người thật kỳ diệu.  Rượu cũng kỳ diệu không kém. Nửa chai vơi đi, lơ mơ chiến sĩ trở về thời đó. Lạ lùng thay, quá khứ dù kinh hoàng, khốn khổ cách mấy, khi nhớ lại, có gì đó đã đổi thay, dường như một cảm giác đẹp phủ lên như tấm màn mỏng, che phía sau một thiếu phụ trẻ đang khóc chồng. Cô có mái tóc màu nâu đậm, kiểu Sylvie Vartan, rủ xuống che nửa mặt. Nhưng thôi, đừng khóc nữa. Chỉ làm đất trời thêm chán nản. Để tôi hát cho em nghe, ngày đó, chúng tôi, những người lính rất trẻ.

Chiếc xe GMC trần trụi chở một bầy trai non, có dân chơi thành phố, tóc bờm xờm; có học sinh mới lớn còn ngớ ngẩn; có sinh viên bị đôn quân, dạn dĩ kiểu đàn anh; có dân quê nhập ngũ, lúng túng; có kẻ trung người tây, chúng tôi chen lấn ngồi hai hàng đối diện. Xe băng qua thành phố. Mọi người sinh hoạt bình thường. Không ai lưu tâm những chàng trai trẻ, xếp bút nghiên theo việc đao cung. Xa xa, sau lưng chợ là nhà tôi. Mẹ giờ này đang chuẩn bị cơm trưa. Bỗng dưng, một anh nào đó, cất tiếng hát:

Rồi đây mai ngày ai hỏi đến tên tôi (1)
Bạn ơi! Hãy nói "khoác chiến y" rồi

Lập tức cả bọn hùa theo. Làm như có tập dợt trước. Ai cũng hăng say, dù thuộc lời hay không.

Người thư sinh ấy đã xếp bút nghiên
giã từ trường yêu với bao nhiêu bạn hiền
có về là khi nước non vui bình yên…

Thật là cảm động. Anh bạn ngồi cạnh tôi, người huế,
cất giọng trọ trẹ nghe như than thở:

Nhớ lúc lên đường đưa tiễn chân tôi,
Thương lên khoé mắt mẹ nhắn đôi lời,
Diệt thù lập công cho xứng tài trai,
Sắt son ghi lòng chớ phai.
Ai đi chinh chiến xây đắp tương lai,
Con đi chinh chiến để nước yên vui
Lời mẹ hiền khuyên nguyền khắc trong tim.

Rồi anh bật lên khóc giữa lúc mọi người đang hồ hỡi, khiến chúng tôi lặng thinh, thông cảm. Chỉ còn nghe tiếng máy xe rú và bánh xe ầm ầm nhồi ổ gà. Trong lúc có vẻ thành tâm, một anh dân chơi phá lên. Có đứa phát cười. Có đứa cau có:

Bạn ơi, quan tài xin cạn chén đi thôi
Ngày mai tôi đã, đã đi xa rồi.

Một giọng khác lớn hơn chiếm lại ưu thế, vài người hùa vào:

Bạn ơi! Khi nào ai hỏi đến tên tôi
Đời tôi lính chiến cánh chim tung trời.
Ngày nào khi đất nước hết binh đao
giữa đoàn hùng binh có tôi đi hàng đầu,
trở về thành đô nắm tay ta mừng nhau.

Tôi bắt đầu sự nghiệp lính như vậy.

Đại đội của chúng tôi gồm có 110 đứa. Ra trường vào mùa hè đỏ lửa 1972. Một năm sau, kêu gọi, hẹn hò, gặp lại nhau, chỉ còn một nửa. Năm đó, bạn tôi, chuẩn úy thủy quân lục chiến tham gia trận đánh chiếm lại Cổ thành Quảng Trị và anh đã lên lon cố thiếu úy.

Bạn tôi hát rất hay. Những đêm nghỉ học ở quân trường, anh ôm đàn thùng, mơ màng những lời truyền cảm, đúng tâm sự, cả bọn ngồi nghe, mịt mờ, say sóng. (2)

Những ngày xưa thân ái, anh gửi lại cho ai?
Gió mùa xuân êm đưa rung hàng cau lưa thưa
Anh cùng tôi bước nhỏ, áo quần nhăn giấc ngủ
Đi tìm chim sáo nở, ôi bây giờ anh còn nhớ?
Những ngày xưa thân ái, anh gửi lại cho ai?
………
Thời gian qua mau, tìm anh nơi đâu?
Tôi về qua xóm nhỏ, con đò nay đã già
Nghe tin anh gục ngã, dừng chân quán năm xưa
Uống nước dừa hay nước mắt quê hương
Những đường xưa phố cũ, ôi nỡ đành quên sao?
Xin gọi lại tên anh giữa trời sao long lanh
Anh giờ yên giấc ngủ, tôi nằm nghe súng nổ
Như lời anh nhắc nhở, ôi căm hờn dâng ngập lối
Những ngày xưa thân ái xin buộc vào tương lai
Anh còn gì cho tôi, tôi còn gì cho em
Chỉ còn tay súng nhỏ giữa rừng sâu giết thù
Những ngày xưa thân ái xin gửi lại cho em

Anh có một người yêu xinh xắn. Chúng tôi xem được hình. Không biết rồi anh sẽ gửi cho ai.

Tôi rời quân đội sớm. Trở về trường luật để tiếp tục chuẩn bị ra trường. Hôm chia tay với các bạn trong đại đội. Người thiếu phụ đó lại khóc lên, thật mủi lòng. Tôi vẫn nhớ mãi anh chàng nhỏ nhắn cùng tiểu đội, da trắng và ẻo ẻo như con gái. Khi tôi làm trưởng ban văn nghệ thực hiện lễ ra trường gắn Anh Pha, tôi bắt anh giả gái, đội tóc giả màu nâu đậm, kiểu Sylvie Vartan, mặc áo đầm, múa vũ khúc “Ác Quỷ và Giai Nhân” thật là đẹp, thật là vui. Thật khó hiểu, khi bắt anh mang cái nịt vú của chị tôi, rồi xoay mấy vòng, trông anh như một vũ nữ. Một năm sau, cô vũ nữ đã theo chồng sang bên kia thế giới trong trận chiến ở Bình Long.

Chai rượu đã gần cạn. Một mình uống rất dễ say. Nhưng tôi chưa say vì bận rộn nhớ lại những bài nhạc, một lịch sử nghệ thuật vừa hiện thực vừa lãng mạn, có lẽ chỉ có trong một đất nước chiến tranh dai dẳng với những tâm hồn đa cảm.

Nếu biết rằng tôi đã bỏ cố hương
Khoát áo đời trai đi ngựa lên đường
Tôi tin rằng người ấy thêm thương
Vui lòng cho kẻ phong sương
Dấn thân ngoài súng đạn sa trường. (3)

Tức cười nhất là những ca từ mang ẩn ý thấm nhuần hành vi tuổi trẻ và của lính về thành phố, chớp nhoáng, thăm người yêu.

Những ngày chưa nhập ngũ, (4)
Anh hay dắt em về vùng ngoại ô có cỏ bông may.
Ở đây êm vắng thưa người, còn ta với trời,
….
Sợ khi người đi để thương, để nhớ
Tiếng yêu đương ai nỡ chối từ.
………….
Những ngày anh đi khỏi
Xin em chớ đi lại vùng tình yêu lắm bẫy nhân gian,

Một trong số bài hát mà hầu hết người lính đều ưa thích, dù không biết hát cũng lầm bầm vài câu. Diễn tả nỗi say mê thắm thiết “Cửa tâm tư là mắt, nên khi đối mặt, chuyện buồn dương gian lẫn mất…” vừa văn vẻ vừa cảm động vừa đúng chóc, không thể nào nói hay hơn. Rồi, cái cảnh tưởng tượng “vụng về ngôn ngữ tình, làm bằng dấu đôi tay,” nhạc sĩ Trúc Phương thật là lão luyện tâm lý.


Từ xa tôi về phép (5)
Hai mươi bốn giờ tìm người thương trong người thương
Chân nghe quen từng viên sỏi đường nhà
Chiều nghiêng nghiêng nắng đổ
Và người yêu đứng chờ ngoài đầu ngõ bao giờ
Cửa tâm tư là mắt
Nên khi đối mặt chuyện buồn dương gian lẫn mất
Đưa ta đi về nguyên thuỷ loài người
Mùa yêu đương muốn ngỏ
Vụng về ngôn ngữ tình làm bằng dấu đôi tay
Bốn giờ đi dài thêm bốn giờ về
Thời gian còn lại, anh cho em tất cả em ơi
Ta đưa ta đến vùng tuyệt vời
Đêm lạc loài giấc ngủ mồ côi
………………………..

2
Người thiếu phụ đó không còn khóc nữa. Có lẽ đã quá mệt mỏi, đã cạn nước mắt, gục đầu lên mặt bàn. Quê hương chinh chiến của tôi có biết bao nhiêu thiếu phụ mất chồng. Nỗi đau lòng buồn thảm đó là một thế giới khác. Thế giới của mất mát, ly tan, của những tâm hồn bị cướp giật yêu thương, bị xô ngã giữa đời sống vẫn tiếp tục đạp lên và không nhìn lại.

Rồi sau 30 tháng 4, họ phải làm gì với thân phận đó? Lấy chồng khác hay ở vậy nuôi con? Khốn khổ nói sao cho hết lời. Cay đắng kể sao cho ai hiểu. Đập chữ vỡ ra, có thấy máu chăng?

Đời của mỗi người, ai cũng có một số điều may mắn. Một trong những may mắn mà tôi ghi khắc trong trí nhớ, đó là lần gặp lại những người bạn thân từ thời trung học. Thi tú tài xong, mỗi đứa mỗi nơi, mỗi binh chủng, mỗi vùng chiến tuyến. Vậy mà may mắn thay, bốn anh bạn này đi phép, trở về thành phố Nha Trang, thăm nhà, có được hai ngày trùng lập với nhau. Chúng tôi hẹn ở một quán cà phê nhỏ, vắng vẻ, sau 8 giờ chỉ còn chúng tôi, uống bia và làm nhiều chuyện ngớ ngẩn, trẻ thơ, rồi ca hát, say mèm. Sáng hôm sau, chia xa, trở về đơn vị, tôi ở lại thành phố. Điều may mắn đó có thể là không may mắn. Mỗi khi nhớ lại, không biết gọi nó là gì, ngôn ngữ thiếu hụt, đành gọi là may mắn.

Tôi lại gặp anh (6)
Người trai nơi chiến tuyến
Súng trên vai bước lê qua đường phố
Tôi lại gặp anh
Giờ đây nơi quán nhỏ
Tuổi 30 mà ngỡ như trẻ thơ

[Ngón đàn bolero của Sơn vẫn ngọt lịm như ngày nào. Giọng hát của Phương giờ đây thêm nhiều nhựa thuốc lá và thanh quảng mòn mài rượu đế.

Khi chúng tôi mang đàn vào quán, cô thu ngân đã chú ý những anh lính này. Chắc cô đã quen lính tráng nhậu nhẹt, có hung thần, có ma quỉ, có thư sinh, có nghệ sĩ. Và cô phải chịu đựng những gì xảy ra, kể cả việc súng nổ, chai bay. Miếng cơm manh áo có đáng hay không? Không có câu trả lời chính xác vì không thể làm gì khác hơn. Nhưng đêm nay, cô thu ngân, tên Phương Hạnh, ánh mắt trẻ mà ngấm buồn, mái tóc nâu đậm, kiểu Sylvie Vartan, nghiêng nghiêng dưới ánh đèn mờ, rất ấn tượng, nhưng chúng tôi bận hát, bận sống cho hết đêm. Mới đầu, thỉnh thoảng Hạnh liếc nhìn về hướng bàn bốn anh lính và một anh dân sự chìm sâu trong góc tối rồi quay đi sợ họ trông thấy, mặc dù, tai vẫn lắng nghe. Một lát sau, khi quán không còn ai, chỉ còn vỏ chai bia và lính, Hạnh dạn dĩ chống tay lên cằm ngồi thưởng thức tiếng hát của anh thiếu úy rằn ri nhưng đẹp trai với hàng lông mày rậm.]    

Nhớ gì từ ngày anh xa mái trường
Nhớ gì từ ngày anh vui lên đường
Lối gầy về nhà anh hoa phượng thắm
Màu xanh áo người thương
Nắng chiều đẹp quê hương
Hay nhạc buồn đêm sương

Tôi lại gặp anh
Trời đêm nay sáng quá
Ánh trăng như hé tươi sau ngàn lá
Tôi lại gặp anh
Đường khuya vui bước nhỏ
Kể nhau nghe chuyện cũ bao ngày qua
Lối gầy về nhà anh hoa vẫn nở
Kỷ niệm từ ngày xưa chưa xóa mờ
Ánh đèn vàng ngoài ô vẫn còn đó
Bạn anh vẫn còn đây
Sống cuộc đời hôm nay
Với bọn mình đêm nay

[Đêm càng tối, lòng càng bay bổng một cách nặng nề. Không có tâm sự nào rõ ràng, chỉ cảm thấy xúc động với đời với người với bạn, kể cả với Hạnh, giờ này, không còn là chủ quán, cô đã trở thành một em gái nhỏ, hậu phương, đang chia xẻ với các anh lính từ tiền đồn về phố. Dường như sáu người chúng tôi đang cảm buồn về những điều gì xa xăm. Gần giống thôi nhưng không hẳn là niềm chia tay, nỗi chết, chỉ là một cảm nhận, một thứ gì mơ hồ bao quanh rồi tràn ngập cả quán. Tất cả những đèn trên tường trên bàn đã tối, giờ còn tối thêm. Hùng có lẽ đã say mê, không phải Hạnh, chỉ một người nữ cần thiết xuất hiện thoáng qua, đậm đà cảm xúc cho anh lính biệt động đang la đà trong câu hát “Và phương đó em ơi có gì vui xin biên thư về cho anh. Nhớ thương vơi đầy, đêm nay trên đồn vắng, thương em anh thương nhiều lắm, em ơi biết cho chăng, tỉnh lẻ đêm buồn… “(7) Đời người dễ được mấy khi sống trọn vẹn buông thả, chúng tôi không còn nhớ thời gian. Hạnh cũng quên đóng cửa quán.]

Anh sống đời trai giữa núi đồi
Tôi viết bài ca xây đời mới
Bờ tre quê hương
Cây súng anh gìn giữ
Tôi hát vang giữa đời để người vui

Thôi mình chia tay
Cầu mong anh chiến thắng
Ánh trăng khuya sắp tàn trên hè phố
Thôi mình chia tay
Rồi mai đây có về
Quà cho tôi anh nhớ chép bài thơ
Nắng đẹp của bình minh đang hé chờ
Nỗi buồn vui biệt ly chưa xóa mờ
Súng thù từ rừng sâu vẫn còn đó

[Đột nhiên tiếng còi giới nghiêm hú lên. Một tiếng hú không đúng lúc, phá vỡ một thế giới tình tự lãng mạn. Hạnh trở về với cô chủ quán. Chúng tôi trở về với chiến tranh. “Cảm ơn Hạnh,” Chỉ có Hùng nói như vậy. 

Năm đứa tôi đi ra đầu đường, Tôi và Thành về chung một hướng, ba người kia mỗi người mỗi ngả.]

Đừng lưu luyến gì đây
Thôi bọn mình chia tay
Thôi bọn mình chia tay.
[Chia xa. Mỗi người trở về đơn vị của mình. Tôi ở lại thành phố. Và vĩnh viễn không còn trông thấy nhau nữa.]
 
                    Viết trong khi chờ 30 tháng 4, 2024
 
Ghi:
(1)  Biệt Kinh Kỳ của Minh Kỳ.
(2)  Những Ngày Xưa Thân Ái của Phạm Thế Mỹ.
(3)  Gõ Cửa của Anh Bằng.
(4)  Bông Cỏ May của Trúc Phương.
(5)  24 Giờ Phép của Trúc Phương.
(6)  Trăng Tàn Trên Hè Phố của Phạm Thế Mỹ.
(7)  Đêm BUồn Tỉnh Lẻ của Tú Nhi.
 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.