Hôm nay,  

Những anh hùng vô danh

30/04/202415:44:00(Xem: 6133)
Truyện

bien cat 3

Trung úy Nguyễn Thanh Long, đã hy sinh 1972 ở Núi Dài, Châu Đốc. Anh tốt nghiệp Sĩ Quan Võ Bị Đà Lạt. Cùng khóa của anh nhiều người cũng đã  hy sinh trong cuộc chiến tranh khốc liệt.
    Và còn nữa, những khóa  sau, như khóa 28 và 29. Ngay sau Lễ Mãn khóa,  các Tân Sĩ Quan đã lên thẳng xe chờ sẵn trước cổng trường để về ngay các đơn vị nhận nhiệm vụ. Họ đã ra thẳng chiến trường vào những giờ phút hấp hối của Miền Nam tự do.
    Ai trong số những người trẻ tuổi ấy đã vĩnh viễn nằm xuống? Ngày 30/4/75 đã qua lâu rồi. Nhưng ngày ấy đã mãi mãi trở thành một cột mốc lịch sử. Xin được một lần nữa cúi đầu trước các anh, những Anh Hùng Vô Danh đã viết lên những trang sử bi hùng.
 
***
 
Năm cuối cấp thật áp lực đối với các nam sinh. Không mơ tưởng đến Bách Khoa, Y khoa, họ chỉ có hai con đường để lựa chọn. Một là học tàng tàng để chờ cuối năm vào Trung tâm huấn luyện Thủ Đức. Hai là đỗ Tú tài để được vào binh chủng mình thích. 
    Trở thành Sĩ quan trường Võ Bị Quốc gia Đà Lạt, là ước muốn của Long bao lâu nay. Nên từ đầu năm, anh đã chuyên tâm vào việc học. 
    Hôm qua, để giải xong đề thi vừa mượn được, Long đã thức suốt đêm. Buổi học sáng nay, dù cố chong mắt nhìn lên bảng, nhưng lời thầy giảng cứ trầm trầm, lơ mơ bên tai Long. Đến tiết cuối thì Long hết gắng gượng nổi. Đôi mắt cứ chực díp đi.
    Long đứng đợi ở bãi xe, mỉm cười vẫy Chi. Chi cũng mỉm cười thật tươi bước tới. Nhưng ơ kìa, Chi không dừng lại bên Long, mà tiến về phía thằng lớp trưởng A2.
    Long đứng bật dậy, hét lớn:
    — Chi, Chi ơi !
    Tiếng la của Long làm cả lớp giật mình quay lại.  Đôi mắt Long đỏ ké vì giấc ngủ chập chờn. Nhưng có lẽ mặt Long còn đỏ hơn. 
    Cả lớp vỡ ầm tiếng cười. Mọi người hết nhìn Long, lại quay sang nhìn Chi. Ở bàn đầu, Chi đang cúi gằm xuống, mặt đỏ như gấc. Thầy vờ làm nghiêm, gõ gõ cây thước lên bảng:
    — Trật tự nào. Còn Long, ra ngoài rửa mặt. Cuối giờ lên văn phòng gặp tôi.
   Một ngày cuối tuần cấm túc không là gì đối với Long. Nhưng bị Chi giận, lại là chuyện nghiêm trọng. Nhà Long xa hơn nhà Chi một quãng, nhưng cùng đường, nên khi tan trường, hai đứa hay thong dong đạp xe về và huyên thuyên đủ chuyện trường lớp. Vậy mà mấy hôm nay, Long chỉ dám đạp xe lẽo đẽo theo sau Chi. Con đường quen thuộc hằng ngày bỗng dưng buồn đến lạ. 
    Trưa nay khi tan học, trời đổ mưa lất phất. Biết Chi thường hay quên áo mưa, Long lấy chiếc áo mưa từ trong cặp, chạy đuổi theo.
    — Chi mặc vào đi.
    — Kệ tui. Ông đừng theo tui, người ta thấy kỳ lắm.
    Nghe Chi xưng ông, tui  là biết Chi giận lắm, vì bình thường Chi luôn nhỏ nhẹ mà. 
    Long kiên nhẫn nằn nì:
    — Chi mặc áo mưa vào đi kẻo bị ướt đó.
    Chi đẩy tay Long ra. Chiếc xe bỗng lảo đảo khiến áo rơi xuống đất. 
    Long lầm lì cúi xuống nhặt chiếc áo lên. Hai chiếc xe vẫn chạy song song, nhưng không ai nói với ai lời nào.
    Đến nhà, Chi lặng lẽ mở cổng đẩy xe vào, chẳng chào Long như mọi khi.
    Long cũng dừng xe lại, chống chân xuống bên gốc me  trước nhà Chi. Mưa chợt đổ ào.Gió thổi mạnh khua rung cành lá, làm mưa rào rào trút xuống như thác lũ. Người Long ướt sũng, mà cảm giác tức tối, giận dỗi  cứ bừng bừng lên. Mười phút. Mười lăm phút trôi qua. Cánh cổng bật mở. Chi cầm dù bước ra:
    — Long về đi. 
    Mặt Long vẫn lầm lầm. Về hay ở thì có liên quan gì đến Chi chứ. 
    — Long…
    Giọng Chi sũng nước làm cơn bực tức trong lòng Long bỗng dưng xìu xuống.
    — Chi … Chi đừng  giận Long nữa nha.
    Chi cúi đầu, lí nhí:
    — Ừ…
    Chỉ cần có thế, Long tươi ngay nét mặt, dấn mạnh bàn đạp về phía trước:
    — Long về đây. Chi vào nhà đi.
    Trong màn mưa mờ mịt, có một anh chàng đang gò lưng dạt gió và một cô gái đang cầm dù mỉm cười nhìn theo.
 
Ngày … tháng… năm 1971.
    Chi thương yêu, 
    Chỉ còn hai tháng nữa là mãn khóa. Ngày ấy anh sẽ chính thức tốt nghiệp với quân hàm Thiếu uý Võ Bị Đà Lạt. Niềm mơ ước và tự hào của khóa sinh các anh sắp trở thành hiện thực rồi.
    Và em biết không, anh còn có một ước mơ từ lâu, rất lâu …Trường anh nằm trên ngọn đồi cao. Chung quanh là cỏ xanh và những hàng cây mimosa vàng rực rỡ. Sau những giờ tập luyện, anh thường nhìn ra khoảng không gian mênh mông quanh trường, và ước gì có em ngay lúc đó. Mình sẽ đi chầm chậm qua những lối mòn. Áo em cũng vàng như màu hoa và vờn quanh bước chân anh theo gió thoảng. Còn hạnh phúc nào hơn khi có em trong đời?
    Người ta vẫn hay ví von, “Tiểu đăng khoa rồi đại đăng khoa “. Hình ảnh chàng trai vinh quy bái tổ về làng, rồi đưa nàng về dinh với “võng anh đi trước võng nàng theo sau…”, trong thơ ca ngày xưa, lãng mạn quá phải không em?
    Anh không có võng lọng để đón đưa em, cũng không thể cho em những vinh hoa phú quý. Nhưng anh yêu  em và  muốn được bên em, cùng em đi đến cuối cuộc đời. 
    Em có thể suy nghĩ thật kỹ rồi trả lời cho anh. Vì, đó là một quyết định không dễ dàng gì. Đồng ý làm vợ một người lính trong vận nước điêu linh như thế này,  em sẽ chịu rất nhiều thiệt thòi trong cuộc sống. 
    Và cho dù câu trả lời của em như thế nào, anh cũng mãi mãi yêu em…..
 
Lễ Truy Điệu Chiến Sĩ Trận Vong đã cử hành vào đêm hôm trước. Hôm nay là Lễ Mãn Khoá gắn cấp bậc cho các Sĩ Quan. Long và các bạn trịnh trọng trong quân phục trắng, chính thức nhận quân hàm Thiếu Úy. Tân Sĩ Quan Thủ Khoa thực hiện hai nghi thức quan trọng nhất của buổi lễ, là Lễ Khai Cung và Lễ Trao Kiếm Chỉ Huy. Lá cờ tổ quốc bay phất phới trên lễ đài. Đôi mắt của những người trẻ tuổi ánh lên niềm tự hào, tràn đầy nhiệt huyết.
    Chi chờ anh ở phòng khách sau buổi lễ. Khi nhìn thấy anh xuất hiện ở ngưỡng cửa, trái tim cô đã thắt lại một thoáng. Trong bộ quân phục với quân hàm sáng lóa, anh trông thật trưởng thành và oai hùng. Chàng trai trẻ từ phút giây này không chỉ là của riêng cô. Anh còn nhiệm vụ cao cả của Tổ quốc oằn nặng trên vai.
    Long tiến đến nắm lấy tay cô. Nỗi xúc động khiến cô gần như nghẹt thở. Cô nói thật dịu dàng, nhưng rõ từng câu, từng chữ:
    — Em đến để trả lời câu hỏi của anh. Em yêu anh. Em sẵn sàng chấp nhận tất cả để được làm vợ anh. Chúng ta sẽ cử hành lễ cưới ngay trong kỳ nghỉ phép này của anh… Trước khi anh lên đường ra trận.
    Gương mặt cô tái nhợt, nhưng ánh mắt thật long lanh. Long cũng xúc động đến nghẹn lời. Anh vòng tay ghì chặt cô vào lòng trong hạnh phúc lẫn đớn đau.
 
Ngày….tháng…năm 1971
Chồng yêu thương của em,
    Vậy là anh dã thực sự bước vào cuộc chiến. Bàn tay chỉ biết cầm bút ngày nào, bây giờ sẽ chai sần vì súng đạn. Từ lúc này, lòng em không còn một giây phút bình yên. 
    Chúng mình sinh nhầm thời đại, nên tuổi trẻ chúng mình buồn quá phải không anh?
 
Ba ngày phép của anh là những ngày hạnh phúc vô cùng của hai vợ chồng ngâu. 24 tiếng đồng hồ một ngày không đủ cho những người yêu nhau. 
Anh chở cô đi vòng vòng thành phố. Những con đường như mòn vẹt cả vết xe.
    Cô nấu cho anh những món anh ưa thích, rồi ngồi nhìn anh ngấu nghiến ăn. Cô hát líu lo, cười nói tíu tít. Anh thức giấc nửa đêm, chống tay ngắm nhìn cô say giấc. Thời khắc bình yên này anh đã từng ao ước biết bao nhiêu, trong những đêm lạnh giá nơi đồn xa, hay những lần chạm vào tử địa. Còn bao lâu nữa họ mới lại được gặp nhau?
 
Ngày… tháng …năm 1972
Anh— hạnh phúc của đời em, 
    Hình như trong em đang hình thành một sinh linh mới. Là con của chúng mình đó. Anh có vui không?
    Em đang ngộp trong niềm vui khi được làm mẹ của con anh. Con sẽ giống anh từng ánh mắt, nụ cười, để mỗi khi nhìn thấy con, em tưởng chừng như đang có anh bên cạnh.
 
    — Làm gì mà cười hoài, mậy?
    Long đưa bức thư cho Vũ. Gương mặt anh rạng ngời.
    — Vậy là mày sắp lên chức bố rồi, thằng ông nội. Vũ vừa nói vừa đấm mạnh vào vai anh.
    Long nhăn mặt xuýt xoa. Nếu lúc khác, có lẽ anh đã đấm trả cho thằng bạn một phát rồi. 
    — Không biết là con trai hay con gái nhỉ?
    — Ừ, tao cũng không biết nữa.
    — Hay là cứ sinh đôi, cho có đủ cả trai lẫn gái đi.
    Long ngần ngừ:
    — Nhưng mà chỉ có mỗi mình Chi ở nhà, lại mang nặng đẻ đau. Tội lắm.
    Vũ cũng chợt chùng giọng:
    — Không biết cuộc chiến này bao giờ mới chấm dứt.
    Cả hai lặng người nhìn ra bên ngoài. Tiếng súng pháo đì đùng vang lên từng lúc như nhắc nhở đất nước này chẳng có cuộc sống bình yên.
 
Ngày…tháng…năm 1972
    Long ơi, 
    Em không nhận được tin tức gì của anh. Những lá thư em gửi đi cũng bị trả lại. Đơn vị anh di chuyển liên tục. Em lo lắng lắm, anh biết không?
Mỗi ngày em hết xem báo lại nghe tin tức trên đài phát thanh, trên truyền hình. Chiến sự đang căng thẳng vô cùng. Những địa danh chưa một lần em đến, giờ không còn xa lạ, khi nghe nhắc đến từng ngày.
    Cầu xin ơn trên cho anh chân cứng đá mềm, bình an trước làn tên mũi đạn.
 
Ngày…tháng…năm 1972
    Chồng yêu thương của em,
    Chị bạn đồng nghiệp em vừa đi nhận xác chồng về. Hôm qua khi đưa đám, nhìn chị ấy rũ rượi khóc ngất bên quan tài, không ai cầm được nước mắt.
    Em vừa căm thù cuộc chiến này đến tận xương tủy, lại vừa sợ hãi nó, Long ơi.
 
Một tia chớp lóe sáng kèm theo một tiếng nổ long trời hất tung người anh lên cao, rồi quăng anh ngã sõng soài trên sườn núi lởm chởm đất đá. Máu từ ngực trái Long đẫm ướt cả bức thư của Chi. Mơ hồ, anh thấy nụ cười Chi rạng rỡ, lúc gần lúc xa như ánh sao đêm chấp chới. 
   “…Hình như trong em đang hình thành một sinh linh mới. Là con của chúng ta đó. Anh có vui không? “
    Có, anh vui lắm, Chi à. Anh không hề cảm nhận đau đớn dù máu  loang lổ từ lồng ngực vỡ toang. Chỉ có niềm vui ngập tràn…. “Chi ơi, con ơi!...”
    Mẹ chồng vẫn nhắc nhở Chi đừng nghĩ ngợi lung tung. Hãy cố bình tâm và ăn uống tẩm bổ cho con được khỏe mạnh. Nhưng làm sao cô an lòng cho được. Cô không nhận được  hồi âm nào của anh. Mỗi ngày qua,  bao khắc khoải càng thêm chồng chất. Giấc ngủ cô chập chờn trong ánh hỏa châu rơi. 
    Tiếng hát từ radio bên hàng xóm vọng trong đêm vắng những lời ca não nuột: “….Anh không chết đâu anh, anh chỉ vừa bỏ cuộc đêm qua. Em thấy mắt anh trong ngọn nến vàng hắt hiu niềm nhớ. Trong khăn tang cô phụ còn lóng lánh dấu ái ân. Giọt nước mắt nóng bây giờ và còn hằng đêm cho anh, cho anh…” (Trần Thiện Thanh)
    Cô bịt hai tai lại, nhưng tiếng hát vẫn ong ong trong đầu cô như nỗi ám ảnh khôn nguôi. 
    Hôm nay lòng cô bỗng dưng có lửa. Giữa bữa cơm, cô chống đũa, thẩn thờ nhìn vào khoảng không. 
    Mẹ chồng lo lắng hỏi:
    — Chi à, con có sao không?
    Cô giật mình lắc đầu:
    — Dạ, không. Không có gì đâu mẹ.
    Đã  khuya lắm rồi mà cô vẫn trằn trọc mãi. Sợ mẹ lại lo lắng, cô không dám bật đèn, chỉ chong mắt nhìn vào bóng  đêm. Cô xoa bụng nhè nhẹ, thì thầm với con mà như thể trấn an mình:
    — Ba sẽ chóng về với mẹ con mình, con nhé.
    Mãi, cô mới mòn mỏi thiếp đi. Mơ màng, cô thấy người anh đẫm đầy máu. Cô hoảng hốt bật dậy,hét thật to. Tiếng hét của cô làm mẹ chồng tỉnh giấc. Bà xô cửa phòng cô, bật sáng đèn:
    — Có chuyện gì vậy con?
    Cô thở dốc, thất thần nhìn quanh. Không có gì cả. Chỉ là giấc mơ thôi mà. Đừng làm mẹ sợ. 
    Cô lắp bắp bịa một lý do:
    — Con … mơ thấy ăn trộm  thôi mẹ.
    Mẹ chồng đỡ cô nằm xuống:
    — Con mệt nên mơ linh tinh đó mà. Cố dỗ giấc ngủ lại đi con.
    Khi mẹ chồng với tay tắt đèn và bước ra, cô thoáng nghe tiếng bà thở dài.
    Cô vùi đầu vào gối. Nhưng vừa nhắm mắt lại, cô có cảm giác như Long đang đứng bên giường. Máu từ ngực anh chảy xuống ấm nóng tay cô. Cô choàng dậy ôm chầm lấy anh. 
    Tay cô chỉ chạm vào khoảng không.
    Cô ngồi tựa lưng vào tường lạnh, nước mắt tuôn tràn. Run run, cô mấp máy môi cầu nguyện, cố bám víu vào niềm tin siêu nhiên khi thực tại đầy ắp những bất an.
    Từ ban-công nhìn ra, Chi có thể thấy hai hàng cây rợp bóng chạy suốt con đường. Nắng trải vàng một vạt thênh thang trong chiều hiu hắt. Thành phố nhỏ quẩn quanh vài góc phố, thân thuộc đến nhắm mắt vẫn hình dung được,. Vậy mà vắng một người  sao thấy trống vắng đến mênh mông. Những hoa nắng nằm yên không  reo vui rộn rã như ngày xưa khi mình đón đưa nhau.  Gió chỉ lao xao lời buồn khi không có anh bên cạnh. Anh ở đâu bây giờ hở Long? Anh có biết em nhớ anh quay quắt từng phút giây không?
    Một người mặc quân phục chợt dừng trước cửa nhà. Là anh, là anh  đó phải không Long? Niềm vui òa vỡ làm người cô tê cứng. Phải mất một lúc định hình, cô mới quýnh quáng chạy ra cầu thang. Bước chân cô bỗng khựng lại lưng chừng khi nghe tiếng mẹ la lên thảng thốt rồi khuỵu xuống:
    — Trời ơi, con tôi…
    Người lạ vội đỡ lấy mẹ.
    Một dự cảm chẳng lành làm cô chới với. Cô như rơi vào chân không. Lảo đảo, cô lăn  dài trên những nấc thang.
     Cô gái có mái tóc xõa dài, gương mặt buồn rười rượi,  hay đi chân trần qua những con đường rợp bóng cây, trong những buổi chiều hiu hắt gió. Trên tay cô ôm con búp bê, miệng nghêu ngao hát câu ru hời:
     “À ơi con ngủ cho ngoan, Cha còn nợ nước đa đoan chưa về”.
    Cô thường ngước lên nhìn những chiếc lá trên cao xao xác, thầm thì với một ai đó ở thế giới của mình.
     “Long ơi, anh đi lâu quá chưa về. Em nhớ anh lắm,anh biết không?” Đôi lúc, cô chợt nhìn đăm đăm về phía trước, như bất chợt trông thấy người quen, rồi vụt kêu gào đuổi theo chiếc bóng vô hình:
     “ Long ơi, chờ em với…”
    Thành phố nhỏ, nên nhiều người biết chuyện và quen mặt cô. Nhưng dẫu có nhìn thấy cô từng chiều, họ vẫn chạnh lòng với hình ảnh một cô phụ lang thang trong ánh tà dương lịm dần vào tối. Có những ánh mắt xót xa kèm theo tiếng thở dài:
    — Tội nghiệp, cô ấy còn trẻ quá.
    Vâng, cô vẫn còn trẻ lắm. Cũng như anh. Anh còn trẻ lắm. Chỉ có ngọn núi kia là già cỗi mà thôi.
    Rồi thời gian trôi qua. Những lớp bụi thời gian phủ mờ ký ức. Mấy ai còn nhớ nơi đó đã một lần anh nằm xuống.
 
***
 
Năm 2015, lần đầu tiên tôi trở lại Việt Nam cùng con. Lần dò hỏi thăm dân địa phương, tôi tìm được vườn nhà ngoại ngày xưa. Cảnh vật thay đổi đến ngỡ ngàng. Ngôi nhà năm gian thênh thang của ngoại đã mục nát,đã giở đi. Không còn dấu vết gì của khu vườn thơ ấu.
    Cây cối cằn cỗi, cỏ dại mọc tràn lan khắp lối. Tôi phải vẹt cỏ và những cành cây chằng chịt để vào khu mộ thắp hương. Đây là khu đất hương hỏa để chôn cất những người đã mất. Nhưng ngoại không còn, con cháu tứ tán khắp nơi. Không ai chăm sóc mộ phần. Người bà con xa đang sống nơi này chỉ sơn mộ và dãy cỏ một lần vào cuối năm khi ai đó gửi tiền về.
    Từng nén hương thắp cắm bên mộ. Khói trầm hương quyện trong gió sao nghe cay xè mắt.
    — Mộ của ông cố, của bà cố …Còn mộ này của ai mà chết trẻ quá vậy mẹ?
    Tôi ngước nhìn. Hàng chữ Nguyễn Thanh Long gợi nhớ những kỷ niệm xa xưa.
    — Mộ của anh họ mẹ. Anh ấy chết khi chỉ vừa 24 tuổi.
    Con tôi trầm ngâm:
    — Tội nghiệp quá. Ông ấy bị bệnh hả mẹ?
    — Không. Vì chiến tranh con à. 
    Đôi mắt con đầy vẻ ngạc nhiên. Trong cuộc sống bình yên nơi đất nước Mỹ, con không bao giờ nghĩ đến những thảm họa kinh hoàng của chiến tranh, những mạng sống bị hủy hoại một cách tàn nhẫn.
    30/4/1975 đã trôi qua gần nửa thế kỷ rồi. Dòng đời đã cuốn chúng ta đi. Có những điều mình muốn quên, thật sự muốn quên đi. Nhưng cũng  có những điều vô tình bị xóa mờ theo năm tháng.  
    Tôi đã dành một buổi nói chuyện với các con. Thế hệ các con trưởng thành nơi đất Mỹ, nhưng các con vẫn mang trong người dòng máu Việt Nam. Các con cần biết và có quyền được biết về đất nước Việt Nam. Để tự hào dân tộc. Để sống thật tốt, thật xứng đáng… Sống tiếp cuộc sống của những người lính trẻ đã hy sinh bảo vệ tự do và bảo cuộc sống cho chúng ta hôm nay.
 

– Biển Cát

Ý kiến bạn đọc
09/05/202414:56:09
Khách
Truyện rất hay! Tác giả rất có văn tài!
Xin góp ý nhỏ:
Miền Nam thời xưa trước 75, không gọi là quân hàm, mà gọi là cấp bậc. Cọng sản vn thì gọi là quân hàm.
Kính,
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.