Hôm nay,  

Công án tân thời

30/04/202415:50:00(Xem: 3048)
Truyện

chinese-mythology

Ông làm bí thơ, quyền lực trùm một phương, ở triều đình hay ngoài châu quận đều đứng trên vạn người trong thiên hạ. Người ta vẫn bảo ông làm vua một cõi, điều này chẳng phải nói điêu mà thật sự như vậy! Lời bàn tán cũng đến tai ông, ông không nói năng gì nhưng tỏ vẻ hài lòng và mặc nhiên cho là thế.
Ông chẳng phải là nhân viên công quyền mà chỉ là người đứng đầu một bang phái nhưng quyền hành của ông phủ khắp, mọi việc lớn nhỏ đều do ông định đoạt, mọi chức vụ cao thấp do ông đặt để. Thiên hạ gọi ông là ông trùm,không một ai dám trái ý, thuộc hạ và bộ sậu luôn đoán ý buồn vui của ông mà hành xử.
    Xưa nay mọi người vốn là kịch sĩ, trong công quyền ai ai cũng nói giả, cười giả, sống giả… giờ thì càng phải nhập vai hơn nữa. Kẻ nào dại mồm ngoác miệng ra nói khác một tí thì coi như kẻ ấy tự chặt chân mình. Ông biết thủ hạ toàn đóng trò, tung hô nịnh bợ nhưng ông khoái, điều ấy như thể những liều thuốc phiện làm cho ông sung sướng đê mê, hễ thiếu là không chịu nổi. Bản thân ông cũng cười giả, nói giả, làm giả, đến nỗi tụi dân giang hồ kháo nhau: “coi vậy chứ hổng phải vậy”. Đứa nào khù khờ ngỡ thật thì chết không kịp ngáp. Nhớ hồi nẳm, có chú kia mới được bổ về địa phương, tuổi trẻ vốn ngựa non háu đá lại ỷ mình có bằng cấp học thật. Chú ngứa mắt trước những hiện tượng xun xoe bợ đỡ của đám công chức đương quyền đối với ông trùm nên chú ấy viết bài đả phá, châm biếm đăng lên mạng xã hội. Chú em ấy đã phạm sai lầm chết người, dám cắt cơn thuốc phiện của ông trùm, lập tức ông trùm hạ lệnh hạch tội, tổ chức đấu tố cả ngoài đời lẫn trên mạng, chụp cho chú em mấy cái nón giấy, mũ cối: “phản động”, “nằm vùng”, “suy thoái”, “diễn biến hòa bình”… Sau khi ông trùm và đàn em phong sát, chú em ấy chỉ còn mỗi đường về nhà giữ con cho vợ đi làm kiếm cơm, cũng may là chú em còn có thế lực đỡ đòn chứ không thì xộ khám rồi!
    Ông trùm và bộ sậu cũng như toàn thể hội viên của bổn bang đều biết rõ cái lý tưởng bấy lâu nay tôn thờ phong thánh ấy chỉ là đồ giả, mượn đó để làm công cụ giữ ghế kiếm ăn. Ai cũng cười cười là vậy, biết tỏng ruột gan của nhau nhưng cứ vờ vịt với nhau, nói trắng phớ ra là cả bọn cùng thờ bụt ăn oản.
Thuở ông trùm mới vào bang hội cũng máu me lắm, từng đánh bọn con nhang đệ tử chạy có cờ. Bọn thầy bà bói toán, đồng cô bóng cậu xính vính vì ông. Bọn ấy phải nằm im thu mình lại suốt bao nhiêu năm trường. Khi thời thế thay đổi, ông trùm lại quay ra chìu chuộng và tin vào bọn ấy còn hơn tin vợ con trong nhà. Ông xuất công quỹ lẫn tiền túi để phục dựng lại dinh cô miếu cậu, phủ ông hoàng, am bà chúa... hết sức vàng son lộng lẫy. Ông trùm chẳng sợ ai, chẳng tin ai, tuy nhiên trong thâm tâm ông vẫn tin có những vị khuất mày khuất mặt đang phù hộ nên ông mới được như thế. Ông cảm cái ơn ấy nên rất thành tâm nhiệt huyết đi hầu đồng, cầu cơ, xin lộc… Để che mắt thiên hạ cũng như tai mắt triều đình, ông tung tin đi du lịch tâm linh, hành hương thánh địa, tất nhiên là ai cũng biết tỏng nhưng chẳng ai dại mồm để rước họa vào thân. Thật ra mà nói thì đám thủ hạ và bộ sậu của ông trùm cũng tin sái cổ vào đám đồng cô bóng cậu như ông trùm mà thôi.
    Một hôm có kẻ trọc đầu xưng sư ở chùa Đại Hồng đến xin diện kiến. Lão trọc ấy vốn chẳng phải ai xa lạ gì với ông trùm, tuy nhiên gần đây ông trùm có lơ là lão vì quá sủng ái bọn đồng cô bóng cậu. Lão trọc ấy thường bày trò để ông trùm mạnh tay đàn áp những vị sư chân chính, cô lập người trung lương. Lão trọc tự xưng mình đã từng tham cứu tất cả các công án của thiền môn nên đã ngộ. Nay y đến cầu kiến ông trùm:
    – Kính thưa ông bí thơ, ông quả là người tài ba và sáng suốt, nhờ sự lãnh đạo của ông mà địa phương ta ngày càng phát triển. Tôi biết ông thông minh và có khí chất phi phàm vì vậy tôi muốn giới thiệu với ông bí thơ một vài công án để giác ngộ. Bản thân tôi đã giác ngộ công án: “Tiếng vỗ của một bàn tay” nên mới nhìn thấy chỉ có ông bí thơ là bậc cao quý, thân nơi chính trường mà tâm nơi Phật cảnh.
    Lão trọc khéo tâng bốc, miệng lưỡi lươn lẹo như thoa mỡ khiến ông trùm nghe thế sướng rêm cả người. Tuy nhiên ông ta làm bộ xua tay:
    – Quý hóa quá, quý hóa quá! Sư thầy đến đây thăm tôi lại còn chỉ bảo cho tôi những việc cao minh. Chúc mừng sư thầy đã giác ngộ, thật đúng là đại sư của triều đình. Sư thầy có thể chỉ cho tôi vài công án thiền gia để tôi thử sức tham cứu xem sao.
    – Công án: “Tiếng vỗ một bàn tay” vốn là công án của các sư Phù Tang chế ra, nó cũng chẳng có gì cao siêu, bọn sư ấy dùng để gạt người nhẹ dạ chứ gạt sao được tôi! Nhiều người mê hoặc nên cứ tham cứu rồi diễn dịch này nọ. Âm thanh của một bàn tay rất rõ ràng trong mắt tôi, nói một cách dễ hiểu là khi ông bí thơ giơ bàn tay lên, lập tức có vô lượng âm thanh phát ra. Nó có thể là âm thanh hoan hỷ để khen thưởng hay phủ dụ. Nó có thể là tiếng cảnh cáo những kẻ dám nói hay đi lệch hướng. Nó cũng là lời đanh thép để tuyên bố cho thiên hạ biết những gì ông trùm và bang hội đã quyết, thậm chí nó là tiếng gươm đao trừng phạt những kẻ “phản bội”, “suy thoái”, “thù địch”… Trên hết, thanh âm của một bàn tay là tiếng nói chân lý và lý tưởng của ông trùm đang tôn thờ và đang chỉ đạo mọi người, là thanh âm của quyết tâm thức để canh giữ hòa bình thế giới, là tiếng lòng chuyên chính, là âm vang của bạc vàng từ những dự án đang chảy vào túi của ông trùm…Khi ông trùm giơ tay lên, dù chỉ là một bàn tay nhưng tiếng vỗ của bàn tay ấy khiến cho thiên hạ phải nghe lệnh, vâng lời, phục mệnh không một kẻ nào dám cưỡng lại…
    Ông trùm nghe lão trọc tán một hồi như thế thì lòng dạ nở từng khúc ruột, tâm trí bay bổng còn hơn phê thuốc, tuy nhiên ông trùm giả vờ khiêm tốn:
    – Ấy chết, sư thầy quá lời, công án nhà thiền tôi nào dám đụng đến, tôi không có cao vọng ngộ công án như thầy vừa chỉ điểm. Tôi chỉ hy sinh dâng hiến đời mình vì dân vì nước nào ngờ lại hợp tông chỉ của công án đến như thế!
    – Ông trùm khiêm tốn quá, công án làm sao bằng được công đức của ông trùm, bọn dân đen ghi tâm khắc cốt ơn ấy. Công án chẳng qua là để ông trùm thư giãn và khai minh trí huệ về sau.
    – Cảm ơn sư thầy, sư thầy quá khen, nhờ sư thầy giới thiệu cho tôi vài công án để tôi thử sức mình, bình sinh tôi cũng yêu thích thiền vì thiền rất là trí tuệ. Tôi cũng muốn tham cứu công án để tâm thanh tịnh hơn.
    – Thật quý hóa, thật là hồng phúc của dân tộc, việc dân việc nước ngập đầu mà ông bí thơ vẫn không quên việc tu thân sửa tánh. Tôi phục ông bí thơ vô cùng, vậy thì lúc rảnh rỗi ông bí thơ hãy tham cứu công án mới này nhé, đó là công án: “Ánh quang minh của màu đỏ”
    – Cảm ơn sư thầy, công án này có vẻ rất lý tưởng.
    – Ông bí thơ quả thật thông minh và sáng suốt, năng lực có thừa, nếu muốn thì ông hãy tham cứu thêm công án thứ hai: “Công lực của một ký tự” như thế vừa tiết kiệm thời gian quý báu, vừa không lãng phí công sức của ông bí thơ, vừa được ngộ nhiều hơn.
    – Sư thầy nói chí phải, tôi sẽ quyết tâm tham cứu hai công án này.
Cuộc hội kiến giữa lão trọc và ông trùm kết thúc trong sự hỉ hả, cả hai đều hết sức hài lòng. Tiễn lão trọc ra tận xe, ông trùm quay vào và ngay lập tức vận công tham cứu liền, kể từ bữa đó ông trùm bế môn để tham thiền. Ở nhà, ông trùm treo bảng “cấm quấy rầy”, ở văn phòng cơ quan, dán biển “miễn tiếp khách”. Ông trùm quyết chí phải tham cứu để ngộ cho bằng được, nếu trước kia vì ngộ lý tưởng mà ông tôn thờ và theo phò một đời, những mong sự nghiệp đời đời sống mãi. Nay ông trùm muốn ngộ công án để liễu sanh thoát tử và từ đó mà ngày ngày chứng kiến sự nghiệp muôn đời của mình. Ông trùm từng nhiều lần tâm sự với bọn đàn em: “Chẳng phải mỗ ham ghế cao hay tham giàu mà tích trữ tài sản; danh vọng vốn phù phù du, của cải vật chất rất vô thường, chẳng qua là vì không nỡ phụ lòng tín nhiệm của chưởng môn nên giữ ghế và vì lòng yêu mến của mọi người mà tạm giữ số của cải phù du ấy”

    Từ hôm nhận hai công án từ lão trọc, ông trùm tuyên thệ phải tham cứu để ngộ, nếu không ngộ ra thì sẽ từ bỏ chức bí thơ, không làm ông trùm nữa! Ngày ngày ông trùm vận dụng hết những phương pháp lý luận vốn bẩm sinh và một phần từ học được ở trường chính trị cao cấp. Ông dùng ý chí sắt đá  mà cả đời đã xài để đấu tranh giai cấp. Ông tập trung cao độ đến mức có thể thần giao cách cảm với lão trọc và bọn đồng cô bóng cậu, tất nhiên là ông trùm cũng cầu khẩn nhờ đến trợ lực của các  vị khuất mày khuất mặt để giúp ông chóng khai ngộ. Ông dùng cái lối tư duy khoa học của giai cấp công nông để làm nền tảng cho việc tham cứu. Ông quyết tâm cảnh tỉnh chính bản thân để khỏi sa vào bẫy diễn biến hay lệch hướng tư tưởng bởi hậu quả phụ của việc tham cứu  tôn giáo gây ra. Ông giữ vững quan điểm tiến bộ và kiên quyết của người công nông vào việc tham cứu công án. Vợ con ở nhà, thủ hạ ở cơ quan, đồng liêu chốn công quyền… tất cả đều biết ông trùm đang tham cứu công án nên không một ai dám quấy rầy, thậm chí bọn họ còn liên tục đi hầu đồng, tiến cúng hậu hĩ cho dinh cậu, miễu cô, phủ ông hoàng… để hy vọng thánh thần giúp ông trùm sớm khai ngộ, phần nữa cũng để thiên hạ thấy mình cũng phục thiện biết thờ thánh thần chứ chẳng phải như lũ vô thần côn đồ vô lại.
    Thấm thoắt bốn mươi chín ngày trôi qua cái vèo như nước qua cầu, như lá rụng hoa rơi...Bốn mươi chín ngày vừa qua như thể một giấc mơ. Ông trùm bừng tỉnh, hoàn toàn khai ngộ. Ông đã thâm nhập vào cốt tủy của hai công án ấy. Ông đã đắc được thiền cơ… Ông trùm thấy người nhẹ nhõm bay bổng, tinh thần lâng lâng sảng khoái, trí óc sáng láng, tư tưởng vững chãi hơn, quan điểm kiên cố hơn và niềm tin bất diệt. Ông trùm nhắn tin cho sư thầy chùa Đại Hồng đến để bàn bạc tổ chức buổi lễ trình pháp và ấn chứng. Hai người bàn thảo cặn kẽ từng chi tiết nhỏ nhặt nhất cho đến những vấn đề lớn có thể ảnh hưởng đến lý tưởng, đạo pháp và sự trường tồn của bổn bang. Ông trùm bảo đảm mọi chi phí do công quỹ chi, còn chùa Đại hồng và lão trọc chịu trách nhiệm trang trí, mời sư khách, thầy pháp…
Đúng lịch trình, ngày bảy tháng bảy vào lúc bảy giờ, bảy phút, bảy giây, tại chùa Đại Hồng. Lão trọc tuyên bố khai mạc buổi lễ ấn chứng. Quang cảnh chùa thật lộng lẫy vàng son như hoàng cung, cờ đạo bay dưới cờ đời, chánh điện hương hoa ngào ngạt, trên bệ thờ tượng Phật đồng ngồi với tượng ông kẹ. Dưới sàn bọn nữ nhân trẻ đẹp mặc áo dài mỏng tang đang lượn lờ múa may. Bọn hồng tăng đắp cà sa lụa vàng viền cạp điều đỏ, ngực đeo đầy huy chương, mề đay, mặt mày bóng lưỡng và hí hửng thấy rõ. Quan khách công quyền vận đồ tây, mặt nghiêm như những ông thần giữ cửa. Đám bộ sậu và mật vụ lăng xăng chạy tới chạy lui lo an ninh cho ông trùm. Trong thâm tâm không ít kẻ cười thầm nhưng không dám nói ra, có hai gã đàn ông trung niên vốn dưới trướng ông trùm nhưng đang nuôi lòng bất dị, hai kẻ ấy xì xầm với nhau: “Bố khỉ, tham cứu công án, tham thiền rách việc!  cạp không chừa thứ gì, ghế cao ngồi mãi không nhích đít, may ra công án cán bộ ông tham cứu công của thì đúng hơn!” . May cho hai gã ấy, kẻ nghe được lời ấy vốn là kẻ không ưa ông trùm, tuy theo ông trùm kiếm ăn nhưng vẫn nuôi lòng chờ chủ khác, kẻ ấy bỏ nhỏ: “Xin hai vị giữ mồm giữ miệng, ông trùm nghe được thì khốn!” hai kẻ ấy giật mình, cảm ơn hắn ta. Kẻ ấy thấy có vẻ đồng hội đồng thuyền, nhân đó xin theo làm đệ cho hai người. Cả ba tiếp tục rỉ tai nhiều bí mật cho nhau trong lúc bọn mật vụ quấn quýt nhặng xị coi trong ngó ngoài, xem xét từng cử chỉ và nét mặt của những người vào ra chùa. Những kẻ được chỉ định phát biểu lo lắng đi gặp trưởng ban tổ chức để nhận lại bài phát biểu vốn phải nộp để duyệt trước. Đám truyền thông và những youtuber, Blogger đệ tử ruột hay nhóm dư luận viên mới được phép tham dự. Bọn ấy xăng xái quay phim, chụp hình, like stream, zoom…nhặng xị cả lên.
    Ông trùm bước lên bục với tất cả sự bệ vệ vốn có, nay trang bị thêm chút thư thả giả tạo cho có vẻ thiền cơ một chút. Mọi người đứng dậy vỗ tay và hoan hô cung nghinh ông trùm như sấm dậy. Ông trùm khẽ nghiêng mình một tí xá xá pho tượng Phật tổ và tượng ông kẹ trên bàn thờ, sau đó quay xuống nhìn một lượt quan khách, hai tay nắm chặt lại giơ lên chào mọi người. Ông trùm bắt đầu những lời thưa hỏi khách sáo, rào trước đón sau và những lời đao to búa lớn như thường lệ, sau cả mươi phút mới đi  vào vấn đề:
    – Mỗ cả đời tôn thờ lý tưởng, cống hiến cho sự nghiệp, dù gì cũng đã một bí thơ, mình có sao thì người ta mới đối đãi mình như thế! Quý vị thử nhìn xem, có bao giờ được như thế này chăng? Mỗ mãn nguyện lắm rồi. Gần đây mỗ được sư thầy chùa Đại Hồng giới thiệu những công án mới, mỗ cố gắng tham cứu để thanh tịnh tâm. Mỗ quyết tâm với khí thế của một chiến sĩ tiên phong, không khoan nhượng, không thỏa hiệp, không lùi bước trước bất cứ thế lực nào. Mỗ đã tham thiền để ngộ nhập vào công án bằng tất cả sức lực quyết thắng, ngoài đời mỗ đã thắng thì mấy công án này cũng phải thắng. Phật tổ, các vị khuất mày khuất mặt đã hỗ trợ mỗ rất nhiều, nhờ thế mà mỗ đã thâm nhập được mật nghĩa sâu xa, khai phá được năng lực huyền bí đầy mầu nhiệm của hai công án: “Ánh quang minh của màu đỏ” và “Công lực của một ký tự”. Việc tham cứu công án khá nặng nề trong khi mỗ đã có tuổi, công việc quốc gia đại sự lu bu, gia đình vợ con đùm đề, đồng liêu trong triều ngoài quận đa đoan… Nhưng cuối cùng mỗ đã vượt qua tất cả. Suốt bốn mươi chín ngày đêm tham cứu và mỗ đã ngộ ra yếu chỉ thiền tông, mật ngôn công án, tâm pháp tổ sư. Màu đỏ là màu mạnh mẽ nhất, rực rỡ nhất, nóng bỏng nhất. Màu đỏ là sự tinh tấn, là nhiệt huyết mang tính chiến đấu, là chiến thắng trăm vạn quân địch và thắng bản thân mình. Phải dùng trái tim đầy máu đỏ để xây dựng thiên đường hạnh phúc chưa từng có trên mặt đất này, màu đỏ chiến thắng sự tối đen ngu si, chậm tiến, lạc hậu, phản động...Còn một ký tự cho dù nhỏ nhất, ngoằn ngoèo nhất, xấu nhất đi nữa nó cũng có công lực của nó nếu nó được viết hay ký bởi một người đã dành hết cuộc đời cho chiến đấu, trung thành với lý tưởng. Một ký tự nó có sức mạnh vạn năng, có thể quyết định sanh tử của một người hay một dân tộc. Một ký tự đơn sơ nhưng nó có thể xây dựng hay hủy diệt một quốc gia, có thể làm thăng hay đọa đối với ai đó...Một ký tự đơn giản bởi nó là một ký tự, đừng nhìn ký tự với cái tâm dính mắc, bản thân ký tự vốn không là gì cả, chẳng qua là mượn nó để biểu tỏ cái mình muốn. Mỗ đã ngộ ra, đã thâm nhập vào tận tầng sâu thẳm nhất của công án, tâm thức mỗ giờ đây như được ánh quang minh của mặt trời rực rỡ soi rọi, tuy nhiên mỗ không biết dùng ngôn từ hay ký tự gì để diễn giải sự giác ngộ này, rất may mắn là có sư thầy Đại Hồng điểm chứng sự khai ngộ của mỗ.
    Ông trùm thao thao bất tuyệt hơn hai giờ đồng hồ, hội trường im phăng phắc, mọi người nghe ông trùm, nhìn ông trùm cứ như thể một thiên sứ hay một vị Bồ Tát nào đó hóa thân để đến độ người. Sư thầy chùa Đại Hồng cũng hoan hỷ sung sướng cao độ, thỉnh thoảng cứ tự xoa đầu, vuốt giải điều đỏ nẹp viền cà sa vàng, tuy giữ lễ tiết oai nghi nhưng thỉnh thoảng quan khách vẫn bắt gặp sư thầy len lén quan sát mọi người. Trong phút chốc ông trùm ngưng một tí để nhấp ngụm nước và lấy lại hơi, chợt dàn loa khọt khẹt phát ra tiếng trẻ con:
    – Ơ, ông trùm đây mà! Tớ vẫn thấy ông ấy trên ti vi hằng đêm ở chương trình thời sự, nãy giờ ông ấy nói gì vậy? hiểu được chết liền!
    Một giọng trẻ con khác:
    – Cậu vốn thông minh mà không hiểu thì bố thằng nào hiểu được!
    Cả hội trường chết trân, bọn mật vụ lập tức tỏa ra truy lùng thì phát hiện hai thằng oắt con con của các vị quan chức tham dự buổi lễ. Hai đứa chui vào khu vực phát thanh ghi hình, chúng nghịch ngợm mà không biết lời của chúng vô tình vang khắp hội trường.
 

– Tiểu Lục Thần Phong

Ất Lăng thành, 0424

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.