Hôm nay,  

Diễm Xưa

01/05/202411:57:00(Xem: 4966)
Truyện

ARVN

Thằng Tường uống một ngụm bia, bọt bia trắng viền trên miệng nó thành một viền tròn. Nó đã bắt đầu ngà ngà say. Để chiếc ly xuống bàn chuếnh choáng, nó vung tay nói:
    –  Mày ở nước ngoài về mày có muốn ăn chơi, mày hỏi thằng anh mày đây nầy. Sang trọng, kín đáo, thì dùng đường dây sex tour ở các khách sạn từ ba đến bốn, năm sao. Ở đó an toàn nhưng rất hao địa. Xuống cấp thấp hơn một chút, mầy có thể đi ngủ khách sạn, rồi kêu em tới. Còn mầy sợ sida thì mầy đi phố Diễm Xưa. Ở đây có con phố mang tên giang hồ là phố Diễm Xưa, chứa toàn là những em nhỏ tuổi, xinh đẹp, thổi kèn hết ý.
    Thằng Hạn chen vào:
    –  Thằng Tường là thổ địa ở đây. Nó là kỹ sư cầu đường nên nó rành đường đi nước bước của thành phố nầy lắm. Mày tin nó đi Niệm. Nó dẫn dắt mầy đi chơi thì hết sẫy đó.
    Niệm không phát biểu, anh ngồi im lặng uống bia. Bia Heineken ở đây rẻ, uống được. Không đậm lắm nhưng không nhạt như Tiger hay Sài Gòn. Về thăm quê sau 5 năm ở Mỹ, anh kêu mấy thằng bạn ngày trước cùng học chung một trường trung học, đi nhậu chơi. Niệm thích uống bia, ngồi tán gẫu với bạn bè, nhưng ở Mỹ anh không thỏa mản được điều đó. Anh sợ lái xe mà có mùi bia mà cảnh sát stop lại là tàn đời trai, nên anh chỉ uống bia ở nhà, mà uống ở nhà, ngồi nhìn khoảng trắng bốn bức tường thì chán chết. Ngồi uống bia có người rót, có người đưa khăn lau mặt và nhìn thiên hạ qua lại, anh vẫn thích hơn.
     Thằng Tường và thằng Hạn đều tốt nghiệp kỹ sư ở Phú Thọ ra, nhưng bây giờ thằng nào cũng xuống cấp thấy rõ. Thằng Tường ngày xưa là thằng học giỏi nhất lớp, thi đậu hạng ưu, hạng bình, Tú Tài 1 và Tú Tài 2, học MGP rồi thi đậu vào trường Kỹ Thuật Phú Thọ. Ra trường được mấy năm thì Sài Gòn thất thủ, nó đi vượt biên mấy lần bị bắt ở tù. Nó chán không vượt biên nữa. Nay trên năm mươi tuổi, nó an phận thủ thường ở lại. Nó ăn chơi nhậu nhẹt từ lúc nào không ai hay.
    Niệm muốn mời hai bạn đi uống bia để ôn lại một vài hình ảnh cũ hồi còn trung học. Hình như những hình ảnh đó cứ bám chặt vào anh khi anh ở nước ngoài. Anh muốn biết tin những thằng bạn đã thất tán từ ngày đứt phìm. Nhưng Niệm thất vọng. Hạn và Tường hình như rành các quán xá, như làng nướng Nam Bộ, quán rắn Tri Kỷ, quán vịt Thanh Đa hay các quán bia ôm, các khách sạn có em út, hơn là địa chỉ của những thằng bạn cùng lớp, cùng trường hồi còn trung học.
    Câu nói của thằng Tường đã đánh động tâm hồn Niệm. Không phải vì anh muốn đến một nơi ăn chơi mà thằng Tường vừa kể, mà anh nghe đến tiếng ''phố Diễm Xưa''. Anh nghĩ đến một con phố đẹp, lịch sự, tao nhã. Ở đó sẽ có những cô gái tóc dài, mặc áo dài đủ màu sắc thật dễ thương, sẽ hát những tình khúc mà anh yêu thích, nhất là bản nhạc Diễm Xưa của Trịnh Công Sơn, mà đã có một thời mê hoặc anh bằng mớ ngôn ngữ tuyệt vời đó. Và một người con gái hát bản nhạc đầu tiên ấy trong tâm hồn Niệm.
 
***
 
Đó là những ngày sau Tết Mậu Thân. Thị xã nơi Niệm dạy học đã trải qua những ngày tháng kinh hoàng của chiến tranh. Đêm tối mịt mùng của những ngày Tết với tiếng đạn AK xé trời. Tiếng hô xung phong của địch khi tiến vào Toà Hành Chánh tỉnh, vào Bộ Chỉ Huy Tiểu Khu. Tiếng đạn phòng thủ bắn trả lại mãnh liệt. Địch không làm chủ được tình hình và sau đó đã phải rút về hướng bờ sông, khu có những hàng phi lao rậm rạp, mong che chắn tầm truy kích của không quân. Trực thăng gunship của quân đội cộng hòa đã bay lên và tiêu diệt. Lần thứ nhất trong đời Niệm nhìn thấy xác chết của địch  nằm la liệt.
     Đó là cuộc Tổng Công Kích của địch trên toàn quốc. Giới nghiêm trăm phần trăm. Sau đó một thời gian, trường anh dạy mở cửa lại, và công tác đầu tiên của trường là tổ chức một buổi trình diễn văn nghệ để lấy ngân quỹ cứu trợ nạn nhân chiến cuộc trong trận Mậu Thân vừa qua. Niệm là giáo sư trưởng ban văn nghệ toàn trường, trường anh sẽ đóng góp một số tiết mục trong buổi trình diễn văn nghệ nầy, cùng chung với các trường trung học khác trong quận. Và hôm đó anh đã gặp Diễm Xưa.
    Cô giáo viên tiểu học có mái tóc dài xoả dài trên vai và lưng. Trông nàng giống như một nữ sinh hơn là một cô giáo. Khi Niệm dẫn các học sinh tham gia văn nghệ vào hậu trường để chuẩn bị trình diễn thì anh thấy nàng. Cái nhìn đầu tiên cho anh cái cảm giác rờn rợn. Nàng mong manh quá. Chiếc áo màu vàng nàng mặc quá nhẹ. Anh nghĩ nếu có một cơn gió nào đó thổi, sẽ hất tung nàng lên. Đôi mắt lớn, đẹp và buồn. Sao cô gái nào có đôi mắt lớn, anh đều có cảm tưởng rằng nàng buồn lắm. Mái tóc buồn theo đôi mắt, mới gặp lần đầu nàng đã làm anh choáng váng. Anh tự trấn tỉnh mình, hãy bình tỉnh lại đi Niệm.
    Đầu tiên của đêm văn nghệ là vũ khúc Tiếng Hát Mường Luông do các học sinh trường trung học Lý Tín biểu diễn. Cô Kim Yên hát rất hay lời bản nhạc trên để làm nền, đệm theo điệu vũ. Hình ảnh những cô sơn nữ bận xà rông, những chàng sơn nam mang gùi làm những động tác của dân sơn cước, làm hội trường rộn ràng hẳn lên. Tiếng hát ''Đây Mường Luông, dốc cao thác ghềnh cheo leo, bóng ai lưng chừng lưng đèo...'' vang vang trong hội trường làm không khí buổi văn nghệ thật sôi động. Tiếng vỗ tay cổ vũ rào rào. Đến khi chương trình của trường Niệm lên trình diễn,  nữ sinh Xuân Thu lên hát bản Cánh Hoa Thời Loạn cũng rất tới. Tiếng vỗ tay rồn rập cả hội trường.
 
***
 
Nhưng đến khi xướng ngôn viên giới thiệu cô giáo Diễm Xưa sẽ lên trình bày nhạc phẩm Diễm Xưa của Trịnh Công Sơn, lúc nầy hội trường mới như vỡ ra, tiếng vỗ tay ào ào đồng loạt rồi im phắc. Chỉ còn lại tiếng nhạc đệm. Tiếng trống, tiếng trompette rít lên nho nhỏ. Diễm Xưa bước ra sân khấu với áo dài vàng. Tóc dài phủ cả một vạt lưng. Đèn trong hội trường tắt bớt tạo nên một không khí mờ ảo.
    Niệm đứng phía dưới nhìn lên sân khấu, ngó nàng đăm đăm. Anh muốn ghi hình ảnh có một không hai nầy. Tâm hồn anh chao động vô cùng. Nàng cúi đầu chào khán giả rồi bắt đầu cất tiếng ca: Mưa vẫn mưa bay trên tầng tháp cổ. Dài tay em mấy thuở mắt xanh xao. Tiếng hát cất lên như từ một không gian nào đó, lắng đọng, tràn ngập, òa vỡ. Như từ một cõi huyền hoặc nào đó, tuôn tràn vào từng li ti những huyết quản làm mọi người rung động bàng hoàng. Chiều nay còn mưa, sao em không lại, nhớ mãi trong cơn đau vùi làm sao có nhau hằn lên nổi đau, bước chân em đi về mau. Mưa vẫn mưa bay cho đời biển động... Tiếng hát vang vang êm nhẹ len vào trái tim anh, thành hình những giấc mơ, những mộng tưởng huyền hoặc.
    Khi nàng ngưng hát. Phải một chặp lâu, khoảng ba mươi giây đến một phút cũng nên, im lặng. Rồi sau đó là một tràn pháo tay dồn dập, dài, không ngớt. Diễm Xưa cúi đầu chào khán giả và đi vào phía trong cánh gà sân khấu.
    Diễm Xưa là tên nàng hay nàng muốn làm cho người ta chú ý mà nàng tự đặt cho mình tên Diễm Xưa, cùng tên ca khúc. Anh bàng hoàng trong những ý nghĩ bâng khuâng đó.
    Những ngày tiếp theo, Niệm đã trầy lên, trật xuống với những mộng tưởng yêu người tuyệt vọng. Anh đã mua bao nhiêu bản nhạc của Trịnh Công Sơn, của Từ Công Phụng, của Vũ Thành An để biếu nàng. Và anh còn làm thơ nữa. Làm thơ với cả tâm tình anh, cả tấm lòng anh. Nhưng Niệm không chen chân vào được trái tim nàng. Đến một hôm, anh đang ngồi uống cà phê ở quán Đợi. Anh thấy nàng ngồi trên chiếc xe jeep với một chàng sĩ quan trên vai gắn hai hoa mai đen. Anh ngó lơ không nhìn nàng nữa, không gặp nàng nữa, nhưng vẫn quên không được hình ảnh của nàng.
    Thằng Tường kêu thêm hai món nhậu. Tôm nướng và cua rang me. Hai món nhậu nầy bắt lắm. Niệm kêu thêm mấy chai Heineken. Khi cô tiếp viên bận cái robe màu xanh da trời thật ngắn, để lộ cặp đùi trắng nỏn, trông ngon lành, đến rót bia vào ly cho Niệm, cô gái đứng thật gần anh, cặp đùi cô cạ sát vào đùi anh. Niệm nghe nhột nhạt và nóng người lên hôi hổi. Anh đưa ly bia lên nói:
    – Này Hạn, Tường, ba đứa mình uống hết mấy chai bia nầy, rồi mày chở tau đến phố Diễm Xưa. Tau bao trọn gói.
    Tường cũng nâng ly bia lên, giọng lè nhè:
    – Việt kiều số một, number one.
    Một tiếng đồng hồ sau, Niệm ngồi phía sau yên xe cho thằng Tường chở đi tìm phố Diễm Xưa. Con đường chạy dài từ lăng cha Cả, xuống Lê Văn Sĩ, quẹo trái đường Điện Biên Phủ một chiều, 2 chiếc xe Honda Dream của Hạn và Tường có lúc lạng qua lạng lại. Ngồi phía sau, ôm lấy bụng thằng Tường, Niệm thấy như mình đang đi giữa những cơn sóng lượn. Xe chạy ngập đường, đường phố đủ màu sắc. Niệm ôm quanh bụng Tường như ôm một cành cây khô, khẳng khiu, đã cạn đi nhựa sống. Cuộc sống của Tường, một người trí thức, học giỏi nhất lớp, nhất trường ngày trước, bây giờ do đâu mà Tường lại ăn chơi bạt mạng thế nầy. Nghe nói, Tường đi nhậu riết, vắng nhà riết, cuối cùng vợ con cũng đâm chán đi. Tường đi về lúc nào cũng mặc.
    Xe qua cầu Điện Biên Phủ, một khoảng đường rộng như xa lộ hiện ra trước mắt. Đây là khúc đường của xa lộ Sài Gòn Biên Hòa ngày trước, con đường được chia làm hai, ở giữa có con lươn sơn đỏ. Một luồng gió mát thổi từ bờ sông Thị Nghè tràn vào cơ thể Niệm, làm anh nghe như tỉnh rượu hẳn ra. Tường chạy xe chậm lại, quay mặt lại sau nói với Niệm qua tiếng gió rít:
    –  Đây là đường Điện Biên Phủ, đọan nầy có tên là phố Diễm Xưa. Bắt đầu từ đây có quán hớt tóc thanh nữ số một, lấy tên là Diễm Xưa, nên người ta gọi phố nầy là phố Diễm xưa cho tiện việc sổ sách. Tụi mình vào tiệm nầy nhé, mày cứ tự nhiên như người Hà Nội, hớt tóc chỉ là cái cớ. Mày cứ vào đây thư giản, có em út đấm bóp cho mày, lau mặt cho mầy, hát cho mầy nghe, và màn cuối cùng là chơi nhạc...
     Niệm hơi khựng người, anh hỏi lại:
    –  Sao có nhạc vào đây, chắc chiếu video ca nhạc hả?
     Tường quát vào tai Niệm:
     –  Cái thằng Việt kiều nhà quê. Đến bây giờ mà mầy không biết chơi nhạc là gì, thôi để vào trong sẽ biết.
     Hạn và Tường dừng xe lại trước của một quán có tên rất tình: Hớt Tóc Thanh Nữ Máy Lạnh, Diễm Xưa. Chữ được kẻ sắc nét, văn hoa và bay bướm. Cả ba xuống xe thì có 2 cậu thiếu niên từ trong tiệm chạy ra đón lấy xe dắt vào tiệm liền.
     Tường đi gần lại phía Niệm, nó nói nhỏ vào tai anh:
     –  Tau đến đây thường thôi, để tau nói cho mầy biết trước, một suất là một tiếng đồng hồ giá là sáu chục ngàn. Vào trong tiệm sẽ có cả một tá em đợi mầy, mầy muốn em nào thì gọi em đó. Nên nhớ xong cuộc, mầy ''bo" ít thôi, năm chục ngàn là vừa, đó là cái giá chung chung, có người kẹo chỉ bo có hai chục ngàn. Mày đừng làm ra vẻ Việt kiều, nhưng cũng đừng kẹo quá. Thế nào mầy cũng vừa lòng. Mày chi trước cho tau và thằng Hạn đi, để tau bo cho ghẹ.
     Niệm móc tiền đưa cho hai đứa bạn. Xong, cả ba bước vào tiệm.
Khoảng năm sáu đứa con gái, đứa nào cũng thật dễ thương, tròn lẳn, mặt hoa da phấn chạy ra đón khách. Thấy Tường, một đứa con gái la to:
     –  Anh Tường, hôm nay có gọi em không?
     Tường nói lớn, ra vẻ quen biết lắm:
     –   Hôm nay anh dẫn khách mới đến cho các em đây, anh bạn của anh, các em nhớ săn sóc bạn anh tốt nhé.
     Tường và Hạn đã chọn hai cô gái và đi vào phòng trong. Còn Niệm đứng lớ ngớ chưa biết chọn ai. Thật ra anh quá lạ với cuộc chơi nầy. Có thể, đời sống ở đất Mỹ là một đời sống bình an quá. Nó không ồn ào và muôn mặt như ở đây. Có đôi lần, anh vào xem showgirls cho biết, nhưng tất cả đâu ra đó, anh ngồi ở dưới nhìn lên, những đứa con gái đủ mọi dân tộc trên sân khấu nhún nhẩy và từ từ cởi bỏ áo quần. Anh chỉ nhìn và chỉ được nhìn thôi. Không được sàm sở, sờ mó bậy bạ. Đó là quy luật. Còn ở đây, thật là một cảnh như chợ trời.
     Một cô gái còn rất nhỏ, đến nói với Niệm:
     – Lần nầy đến tour em tiếp anh, anh vào trong với em đi.
     Nhìn lướt qua cô gái, cô gái còn bé quá, anh đoán chỉ khoảng mười bảy, mười tám tuổi là cùng. Anh noí:
     – Thôi được, tôi chọn cô.
     Khi Niệm theo cô gái bước vào phòng thì cánh cửa kính cũng tự động khép lại. Bên trong một dãy ghế dựa được kê ở thế nằm. Căn phòng rộng kê khoảng mười ghế, đàng xa kia có một người khách đang nằm trên ghế, một cô gái ngồi kế bên đang xoa bóp cho anh ta, người khách choàng tay qua lưng cô gái xoa xoa sờ mó. Niệm cũng nằm trên ghế, anh thấy thoải mái vì máy lạnh được chạy đều. Từ bên ngoài không khí nóng hừng hực, vào đây như thấy khoẻ hẳn ra. Cô gái cầm cái khăn lạnh đến bên người anh, cô đắp chiếc khăn trên trán anh và lấy hai tay chắp lại đánh đều đều trên trán. Tiếng chách chách nghe thật vui tai. Xong cô tựa sát vào người anh, nàng nói:
     – Anh thấy đở mệt chưa, em lau mặt anh nhé, xong em sẽ mát xa cho anh.
     Cô gái làm việc rất chí tình. Cô tự động kích thích anh. Niệm để mặc cho cô gái làm gì thì làm. Đến khoảng hai mươi phút sau, cô gái chỉ một căn phòng nhỏ kế bên:
     – Anh vào trong với em nghe.
     Niệm nghe rạo rực trong người và ngồi dậy bước theo cô gái. Đây là một cái giường chiếc, dùng cho khách sau khi hớt tóc xong sẽ vào đây gội đâu. Đó là một cách ngụy trang, không có hớt tóc thì làm gì có chuyện gội đầu. Niệm ngẩn ngơ không biết màn hai sẽ là màn gì sắp diễn ra, nhưng anh cũng nằm xuống. Anh nghĩ, cũng là một dịp để biết thêm những mới lạ, mình đàn ông đâu có gì phải sợ hãi. Cô gái đến gần anh, cô kéo cái robe để lộ bộ ngực trần thon tròn cạ trên mặt Niệm. Rồi cô xoay người, cúi xuống phía dưới. Một chốc, Niệm nấc lên.
     Một giờ sau, sau khi anh đã xong xuôi mọi chuyện, anh bo tiền cho cô gái và hôn nhẹ lên đôi mắt đẹp của cô ta, cô ôm anh, nũng nịu nói:
     – Anh hiền và ít nói quá, lần sau có ghé đây chơi, anh nhớ kêu em nghe, em là Mộng Hiền.
     Niệm gật đầu. Anh bước ra khỏi phòng, tiến đến quày trả tiền giờ. Người đàn bà đứng thâu tiền chợt ngước mắt lên. Niệm nhìn sững, A, cô giáo Diễm Xưa, người mà cách đây trên ba mươi năm anh đã từng say đắm. Đôi mắt kia anh không nhầm lẫn vào đâu được. Niệm trả tiền và nhìn trân vào khuôn mặt nàng một lần nữa. Người đàn bà vẫn vô tình, nở một nụ cười thật đẹp, nàng hỏi nhỏ:
     – Mấy em có làm vừa lòng anh không?
     Niệm gật đầu rồi leo lên xe thằng Tường đã rồ máy sẳn.

– Trần Yên Hòa

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.