Hôm nay,  

Đọc những vần thơ cho Mẹ

12/05/202408:13:00(Xem: 2467)
Tản mạn -- Ngày Lễ Mẹ

117771775_1818674078301723_2593627914711228905_n

Mẹ đã về cõi vĩnh hằng. Tưởng nhớ mẹ, nhà thơ Trần Thanh Quang gửi tiếng lòng vào một trong những bài thơ dành cho mẹ đầy xúc động. Bài thơ có tựa chỉ một tiếng Mẹ nhưng gói gắm cả bầu trời tâm sự của người con. Anh đã chọn thể thơ lục bát truyền thống để chuyển tải thi ý, nghe giai điệu vọng về như tiếng ru của mẹ thuở nào!
    Mở đầu bài thơ là một lời tâm sự với em -nhân vật trữ tình khác như thể để dặn dò nhân vật em: Em còn có mẹ, ta thì không. Em có mẹ để về, để sà vào lòng mẹ, còn ta mẹ đã đi xa rồi, chỉ còn lại nỗi niềm nhớ thương chất ngất.
 
“Em còn có mẹ để về
riêng ta nặng nỗi ê chề nhớ thương
những điều rất đỗi bình thường
luôn phơi kín suốt con đường ta qua”
 
Hồi ức nhớ lại. Có những điều rất đỗi bình dị trong cuộc sống bây giờ đã thành kỷ niệm. Kỷ niệm đã qua với mẹ với gia đình luôn hiện hữu trong tâm trí. Hình ảnh mẹ, lời mẹ nói, cử chỉ của mẹ,.. luôn là hành trang mang theo trong mỗi chặng đường đời khi vấp ngã hay sóng gió cuộc đời, nghĩ về người mà vượt qua dâu bể.
    Mẹ mất đi, mọi đứa con dù ở độ tuổi nào cũng cảm thấy như bầu trời sụp đổ và cảm giác bơ vơ, đơi côi hơn bao giờ hết. Nỗi nhớ mẹ thường trực trong tâm trí, Tâm trạng người con mất mẹ nhiều khi thờ thẫn, không muốn chấp nhận sự thật là mẹ đã không còn nữa trên đời, ngẩn ngơ nhìn vào cõi mông lung không định hướng, như thể mẹ vừa mới đi đâu. Nhớ mẹ, tác giả nhớ hình dáng mẹ với hình ảnh “ bờ vai khô” là dấu hiệu của tuổi tác, dấu hiệu của thời gian đã bào mòn sức khỏe mẹ.
Hình tượng “bờ vai khô” cũng phần nào nói lên nỗi vất vả lo toan của mẹ. Bờ vai ấy đã gánh những gì:
 
“Bờ vai gánh những xô bồ
những cay đắng bạc áo thô mẹ hiền”
 
Câu thơ hàm súc, ít lời mà nhiều. Cuộc đời mẹ - người phụ nữ Việt Nam chịu thương chịu khó tần tảo sớm trưa, chăm lo gia đình và nuôi dạy con cái. Những cụm từ, “vai gánh xô bồ”; “cay đắng”, “bạc áo thô mẹ hiền” cho ta cảm nhận được mẹ đi qua cuộc đời không ít gian trân, những xô bồ của bộn bề cuộc sống. Nhất là mưu sinh trong thời loạn. Cả những buồn vui của kiếp người, của phù trầm dâu bề mà mẹ từng trải qua. Câu thơ như lời kể trong tiếng khóc thương của người con tưởng nhớ mẹ.
    Tác giả nhớ và tiếc những tháng ngày bên mẹ giờ đã lùi xa vào dĩ vãng, anh dặn dò với “nhân vật em”. Khi còn mẹ dẫu mẹ sức khỏe của tuổi xế chiều, nhưng vẫn còn hiện hữu bên cạnh con thì đó là điều hạnh phúc mà anh không thể có lại được. Vì vậy, tác giả như muốn gửi gắm một cái ôm như anh đã từng ôm mẹ. Anh dặn người em: khi về quê hãy ôm mẹ thật chặt, ôm luôn cả vạt áo. Ai có được vòng tay hơi ấm của mẹ thì bao nỗi nhọc nhằn trên đường đời đều tan biến. Không có gì ấm áp hơn là bên cạnh tình thương yêu của mẹ. Đó là điều quý giá, mà anh đã mất, không dễ gì bù đắp được nên tác giả nhắn nhủ tình cảm ấy cho người em khi về bên mẹ của mình. Thông điệp của câu thơ là hãy trân trọng những giây phút quý giá khi còn mẹ, hãy yêu thương và chăm sóc mẹ khi còn có thể.
 
“Mẹ em dẫu tuổi xế tà
nhưng còn hiện hữu hơn là đi xa
về quê em nhớ ôm bà
ôm thật chặt cả vạt tà phất phơ”

Những vất vả hi sinh của mẹ không giấy bút nào kể hết: Mẹ “gom hết ưu phiền”, “ chịu hết đa đoan” để cho con vui vẻ, hạnh phúc, ăn học trưởng thành đủ đầy nhất có thể. Mẹ bươn chải hết mình và những mong con cái vững bước vào đời, như bao bạn bè trang lứa.
 
“Mẹ ta gom hết ưu phiền
cho ta chân cứng đá mềm bình an
mẹ ta chịu hết đa đoan
cho ta hạnh phúc thênh thang giữa đời.”
 
Nhớ Mẹ với tấm lòng bao dung vô bờ bến và trái tim ấp áp và vị tha. Người ta từng ví trái tim người mẹ như một kỳ quan thế giới: dung dưỡng, yêu thương con cái một cách vô điều kiện. Nhớ đến mẹ là nhớ đến công sinh thành dưỡng dục bao la trời biển của người.
 
“Mẹ ta lòng rộng biển khơi
trái tim hơn cả bầu trời xanh cao
đêm về con ngắm chòm sao
thấy như mẹ vẫn ngày nào bên con.”
 
Ngoài những khi công việc cứ cuốn đi hối hả của bộn bề cuộc sống, thì lúc đêm về tĩnh lặng, nỗi niềm thương nhớ mẹ lại dâng trào. Nhìn đâu cũng không thấy mẹ, không còn hơi ấm của mẹ nữa, thi nhân ngồi ngắm chòm sao, biết đâu mẹ cũng là một vì sao nơi xa đâu đó trên vòm trời đang dõi theo con, che chở cho con trên dặm đời mưa nắng. Ngắm sao, sẽ thấy lòng ấm lại như được ở bên mẹ ngày nào. Đó là niềm an ủi cho thi nhân. Mẹ vẫn còn hiện hữu trong tâm trí thi nhân chưa và sẽ không bao giờ phai nhạt.
    Bài thơ là một nén hương lòng hiếu kính của tác giả dành cho mẹ cũng là nói hộ tấm lòng của những ai mất mẹ và thông điệp nhắn nhủ tới những ai còn mẹ: hãy thương yêu và chăm sóc mẹ khi còn có thể.
 
“Con bảy mươi rồi… khóc nhớ mẹ
Tiếng lòng nghe thảng thốt tâm can
Mẹ không còn nữa - Trời tan nát
“Vũ Trụ” đâu rồi…con đơn côi.”
 
– Hoàng Thị Bích Hà

Ý kiến bạn đọc
12/05/202422:30:56
Khách
Một bài phê bình của nhà thơ- nhà phê bình văn học Hoàng Thi Bích Hà rất hay, với cái nhìn sâu sắc cùng những từ ngữ chọn lọc và những lời bình tuyệt vời làm thăng hoa bài thơ Mẹ
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi bị bắt tại huyện Tân Hiệp chiều ngày hai mươi, giáp Tết. Lý do, mang theo hàng không giấy phép. Thế là tiêu tan hết vốn lẫn lời mà tôi chắt chiu, dành dụm gần cả năm nay. Nhớ đến mẹ và gia đình trong những ngày Tết sắp tới, tôi vừa buồn vừa tức đến bật khóc. Xui rủi, biết trách ai. Tiễn, anh phụ lơ, đã cẩn thận cất dấu hàng cho tôi, vã lại anh cũng quá quen biết với đám công an trạm kiểm soát. Không ngờ chuyến nầy bọn công an tỉnh xuống giải thể đám địa phương, nên tôi bị “hốt ổ” chung cả đám. Đây không phải là lần đầu bị bắt, nhưng lại là lần đầu tiên tôi đi chuyến vốn lớn như vầy. Năm ký bột ngọt, năm ký bột giặt, hơn chục ống thuốc cầm máu và trụ sinh hàng ngoại. Bột ngọt, bột giặt không nói gì, nhưng hai thứ sau hiếm như vàng mà giới “chạy hàng” chúng tôi gọi là “vàng nước”. Nên thay vì đưa về khu tạm giam huyện chờ lập biên bản, hồ sơ xét xử tôi nghe bọn công an thì thầm, bàn tán giải thẳng về khám lớn tỉnh Rạch Giá.
Quỳnh Lâm báo tin sẽ đến Đức trong tuần lễ đầu tháng 10. Nisha vội vàng thu xếp “sự vụ lệnh“ để công du sang Đức. Nisha lo đi chợ sắm sửa đầy mấy tủ lạnh, tủ đá, để mấy cha con sống còn trong thời gian nữ tướng đi xa. Chúng tôi hồi hộp quá, ngày nào cũng thư từ, nhắn nhủ, dặn dò đủ điều tẳn mà, tẳn mẳn. Điện thư qua, về hoa cả mắt. Thư nào chúng tôi cũng nhắc nhở nhau giữ gìn sức khoẻ, vì đứa nào cũng “lão” rồi. Khi gặp nhau, tụi tôi nhất thiết phải đầy đủ tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện. Có hôm, đến trưa, chưa nghe tăm tiếng, tôi sốt ruột, xuất khẩu làm thơ... bút tre:
Sống ở đây an toàn và bình an gần như một trăm phần trăm trong hiện tại và tương lai, nhưng không thể bình thản hóa quá khứ. Cuộc chiến khốc liệt giữa thiên thần và ma quỉ luôn ám ảnh ông. Có những điều gì thao thức, âm thầm nghi hoặc, nhoi nhúc sâu thẳm trong ông. Lòng tin vào ông Gót có phần nào lung lay. Đông cảm thấy có lỗi khi nghi ngờ bố, người đã giúp đỡ, bảo vệ ông và Vá. Nhưng nghi ngờ là một thứ gì không thể điều khiển, không thể đổi đi, không thể nhốt lại. Nó vẫn đến, mỗi lần đến nó vạch rõ hơn, nhưng vẫn mù sương như đèn xe quét qua rồi trả lại sương mù.
Trâm gật đầu nhè nhẹ. Đoan nghĩ thật nhanh đến một cảnh diễn ra mỗi đầu tháng trong sân trường. Nơi đó, các sinh viên xúm xít cân gạo và các loại “nhu yếu phẩm”, mang phần của mình về nhà. Rồi thì trong khu phố, cảnh những người dân xếp hàng “mua gạo theo sổ” cũng diễn ra mỗi ngày. Nói “gạo” là nói chung thôi, thật ra trong đó phần “độn” chiếm đa số. Phần “độn” có thể là bo bo, có thể là bột mì, cũng có thể là khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô. Nồi cơm nấu từ gạo và một thứ khác được gọi là nồi “cơm độn.” Mỗi ngày hai bữa cơm độn. Bo bo thì quá cứng vì vỏ ngoài chưa tróc, nấu trước cho mềm rồi cho gạo vào nấu tiếp, trở thành một “bản song ca” chói tai. Khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô thường bị sượng, ghế vào cơm rất khó ăn. Chỉ có bột mì tương đối dễ ăn hơn, vì người nấu có thể chế biến thành bánh mì, nui hay mì sợi
Mùa đông, tuyết đóng dầy trên mái nhà. Ấy là lúc bà ngoại cũng lo là lũ chim - những con chim của ngoại - sẽ chết cóng. Nhưng bà không biết làm gì để cứu chúng nó. Ngoại đi tới đi lui từ phòng khách qua nhà bếp. Thở dài. Rên rỉ. Rồi lẩm bẩm, “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.” Bà ngoại tội nghiệp những con chim chết lạnh. Sinh nhật ngoại, chúng tôi chung tiền mua quà. Một con sáo trong chiếc lồng tuyệt đẹp. Bà ngoại cưng nó hơn cưng chị em tôi. Cho nó ăn, ngắm nghía bộ lông đầy màu sắc của nó. Chăm chú lắng nghe tiếng hót véo von lúc chớm nắng bình minh và buổi hoàng hôn nắng nhạt. Rồi một buổi sáng nọ tiếng chim thôi líu lo. Bà ngoại chạy ra phòng khách. Hấp tấp tuột cả đôi guốc mộc. Con chim sáo nằm cứng sát vách lồng. Hai chân duỗi thẳng. Cổ ngoặt sang một bên. Con chim của ngoại đã chết. Bà ngoại buồn thiu cả tuần lễ. Bố mẹ tôi bàn tính mua con chim khác. Bà gạt ngang.
Tôi là người viết báo nghiệp dư. Từ khi khởi viết vào năm 1959, tay cầm viết luôn là nghề tay trái. Tôi sống bằng nghề tay phải khác. Cho tới nay, nghề chính của tôi là…hưu trí, viết vẫn là nghề tay trái. Tôi phân biệt viết báo và làm báo. Làm báo là lăn lộn nơi tòa soạn toàn thời gian hoặc bán thời gian để góp công góp sức hoàn thành một tờ báo. Họ có thể là chủ nhiệm, chủ bút, tổng thư ký, thư ký tòa soạn hay chỉ là ký giả, phóng viên. Nhưng tôi nghĩ người quan trọng nhất trong tòa soạn một tờ báo là ông “thầy cò”. Thầy cò ở đây không có súng ống hay cò bóp chi mà là biến thể của danh từ tiếng Pháp corrector, người sửa morasse. Morasse là bản vỗ một bài báo cần sửa trước khi in.
Sáu tuần. Nàng đã đi ra khỏi mụ mị từ trong mối tình hiện tại của mình. Cô bạn gái hỏi "Tỉnh chưa?". Tỉnh rồi, nhưng tỉnh không có nghĩa không yêu anh ấy nữa, chỉ là không còn mụ mị mê muội nữa thôi...
Trong bóng tối dày đặc, dọ dẫm từng bước một, hai tay vừa rờ vào hai bên vách hang động, vừa quơ qua quơ lại trước mặt, dù cố mở mắt lớn, chỉ thấy lờ mờ, nhiều ảo ảnh hơn là cảnh thật. Cảm giác bực bội vì đã trợt té làm văng mất ba lô, mất tất cả các dụng cụ, thực phẩm và nước uống cần thiết. Bối rối hơn nữa, đã rớt chiếc đèn bin cầm tay, mất luôn chiếc đèn bin lớn mang bên lưng và máy liên lạc vệ tinh có dự phòng sóng AM. Giờ đây, chỉ còn ít vật dụng tùy thân cất trong mấy túi quần, túi áo khoát và hoàn toàn mất phương hướng. Chỉ nhớ lời chỉ dẫn, hang động sẽ phải đi lên rồi mới trở xuống. Trang nghĩ, mình có thể thoát ra từ lối biển. Là một tay bơi có hạng, nàng không sợ.
Cô người Nha Trang, lớn lên và đi học ở đó. Cô sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, mẹ cô đi dậy học, ông thân cô cũng là hiệu trưởng một trường trung học lớn ở Phú Yên. Năm 22 tuổi, cô học năm cuối đại học văn khoa Huế thì gặp gỡ chú Hiếu trong một dịp hội thảo sinh viên do các biến động thời cuộc miền Trung bắt đầu nhen nhúm. Chú Hiếu lúc đó đang theo cao học luật. Họ thành đôi bạn tâm giao tuổi trẻ, sau thành đôi uyên ương. Ba năm sau khi Trang vừa 25 tuổi, Hiếu đã nhậm chức chánh án tòa thượng thẩm.
Nhà trẻ kế bên bệnh xá. Trong góc một trại giam. Nhà trẻ có sáu đứa con nít. Bệnh xá có mấy bệnh nhân già. Coi bệnh xá là một tù nam nguyên là y tá ngoài đời. Coi nhà trẻ là một tù nữ án chung thân. Coi cả hai nơi ấy là một công an mà mọi người vẫn gọi là bác sĩ! Sáu đứa con nít đều là con hoang. Mẹ chúng nó là nữ tù bên khu B, đừng hỏi cha chúng đâu vì chúng sẽ không biết trả lời thế nào. Cũng đừng bao giờ hỏi mẹ chúng nó về chuyện ấy vì rằng đó là chuyện riêng và cũng là những chuyện rất khó trả lời. Thảng hoặc có ai đó được nghe kể thì lại là những chuyện rất tình tiết ly kỳ lâm ly bi đát… chuyện nào cũng lạ, chuyện nào cũng hay
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Ông Hải đứng trước của nhà khá lâu. Phân vân không biết nên mở cửa vào hay tiếp tục đi. Tâm trạng nhục nhã đã ngui ngoai từ lúc nghe tiếng chim lạ hót, giờ đây, tràn ngập trở lại. Ông không biết phải làm gì, đối phó ra sao với bà vợ béo phì và nóng nảy không kiểm soát được những hành động thô bạo.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.