Hôm nay,  

Chim Quạ Biết Học Số Học, Đếm, Tính Trước

28/06/202400:00:00(Xem: 3055)
 
z_1 chim qua

Chim quạ cũng có thói quen sống tập thể.

 
Khi đọc truyện cổ thế giới, chúng ta thường gặp một số cổ tích, trong đó chim quạ cũng biết nói, cũng giao tiếp với người. Những chuyện như thế rất là bình thường trong quan điểm Phật giáo, đặc biệt là trong các truyện Bản sinh (Jātaka) ghi lại các kiếp tiền thân của Đức Phật. Tất cả chúng sanh được tin là những vị Phật và Bồ-tát sẽ thành. Nơi đó, chữ “chúng sinh” có nghĩa là người và thú, là chim, khỉ, ngựa, cá, voi, cọp… Quan niệm đó cũng là cội nguồn của hạnh ăn chay, tránh ăn thịt. Thực tế, Đức Phật cho ăn thịt với điều kiện là Tam tịnh nhục: Kinh Jivaka Sutta ghi rằng, “Thịt có ba trường hợp không nên dùng, khi nhìn thấy, nghe thấy hoặc khi nghi ngờ (có một con vật đã bị giết cho mình ăn)…” Về sau, Phật giáo Đại thừa đưa ra quan điểm ăn chay tuyệt đối. Nghĩa là, loài vật với người là bình đẳng, như là chúng sinh.

Văn học dân gian Việt Nam cũng nhìn một kểu tương tự. Đặc biệt, chim quạ là một con vật rất là đáo để, biết nhìn ra những chuyện mà các cặp tình nhân giấu kín, biết kêu lớn tiếng để giễu cợt khi nhìn thấy chàng trai đêm khuya trèo tường vào nhà thăm nàng. Bài dân ca Lý Quạ Kêu cho thấy cái ồn ào quậy phá của chim quạ:

“Kêu cái mà quạ kêu, kêu cái mà quạ kêu. Quạ kêu nam đáo, tắc đáo nữ phòng. Người dưng khác họ chẳng nọ thời kia...”

Chim quạ thô lỗ như thế đấy. Kiêu căng, lỗ mãng. Nghĩa là, cũng mang phẩm tính người (mà là người xấu tính. Kinh Pháp Cú, Đức Phật có nói 2 bài kệ 244 và 245, nhắc tới chim quạ. Bản dịch của Thầy Minh Châu là:

244. "Dễ thay, sống không hổ
Sống lỗ mãng như quạ,
Sống công kích huênh hoang,
Sống liều lĩnh, nhiễm ô."
 
245. "Khó thay, sống xấu hổ,
Thường thường cầu thanh tịnh.
Sống vô tư, khiêm tốn,
Trong sạch và sáng suốt."
 
Duyên khởi cho hai bài kệ là chuyện về nhà sư Culasari hành nghề bác sĩ, bị Phật rầy. Lúc đó, Đức Phật cư trú tại tu viện Jetavana. Một hôm, nhà sư Culasari trở lại sau khi chăm sóc một bệnh nhân. Trên đường đi, ông gặp Trưởng lão Sariputta và kể cho Trưởng lão nghe cách ông đến chữa trị cho một bệnh nhân và được tặng một số món ăn ngon để đền công. Nhà sư Culasari cũng cầu xin Trưởng lão Sariputta nhận một ít thức ăn từ ông. Trưởng lão Sariputta không nói gì, mà tiếp tục lên đường. Trưởng lão Sariputta từ chối nhận thức ăn từ nhà sư đó vì nhà sư đó đã vi phạm luật cấm các nhà sư hành nghề y. Các vị sư khác đã trình bày việc này với Đức Phật và Đức Phật nói rằng: "Này các vị tỳ khưu! Một vị tỳ khưu không biết xấu hổ là người thô lỗ trong tư tưởng, lời nói và việc làm. Người ấy kiêu ngạo như một con quạ, sẽ tìm cách sống bằng những phương tiện phi pháp và sống xa hoa. Mặt khác, cuộc sống của một vị tỳ khưu có cảm giác xấu hổ sẽ không hề dễ dàng.” Đó là khi Đức Phật đọc hai bài kệ trên, trong đó con quạ là lỗ mãng, kiêu căng.
Bây giờ, một cuộc nghiên cứu khoa học mới phổ biến kết quả tuần qua, cho thấy chim quạ có trí khôn tương đương với một em bé ở tuổi đi chập chững. Và chim quạ biết đếm, mà đếm thành tiếng, biết đếm bằng tiếng kêu tới 4. Bài viết này sẽ tổng hợp các bản tin viết về cuộc nghiên cứu này.

z_2 chim qua

Vẫn có những con chim quạ đơn độc.


Các nhà khoa học từ lâu đã biết rằng loài quạ (crows) rất thông minh. Nhưng biết đếm lại là một kỹ năng khác. Bây giờ thì, một nghiên cứu mới cho thấy chúng có khả năng đếm thành tiếng - lần đầu tiên ở một loài động vật không phải con người, theo bản tin của báo Live Science (livescience.com). Trên thực tế, những con quạ có vẻ khá giỏi việc đó, trí khôn ngang bằng với những đứa trẻ mới biết đi của con người, theo tạp chí Scientific American (scientificamerican.com). Trong nghiên cứu được công bố trên tạp chí Science (science.org), các nhà nghiên cứu đã thử nghiệm với ba con quạ và nhận thấy chúng có thể đếm đến bốn một cách đáng tin cậy bằng tiếng kêu thốt ra, mặc dù họ nói thêm rằng những con chim quạ này có thể đếm nhiều hơn nếu cần.

Các nhà nghiên cứu viết trong nghiên cứu: “Việc tạo ra một số lượng tiếng kêu cụ thể có mục đích đòi hỏi sự kết hợp tinh vi giữa khả năng số học và khả năng kiểm soát giọng kêu. Kết quả của chúng tôi chứng minh rằng loài quạ có thể tạo ra số lượng âm thanh được hướng dẫn một cách linh hoạt và có chủ ý bằng cách sử dụng 'hệ thống số gần đúng' ('approximate number system'), một hệ thống ước tính số không mang tính biểu tượng được chia sẻ bởi con người và động vật."

z_3 qua dua gion voi keyboard

Một con quạ đùa giỡn với bàn phím.


Trong thử nghiệm, các nhà nghiên cứu đã cho lũ quạ ăn bốn tín hiệu thị giác (số Ả Rập có màu) và bốn tín hiệu thính giác (âm thanh của một nhạc cụ, khá phù hợp). Sau một thời gian học tập, những con chim có thể tính ra số lần kêu, khi được đưa ra một lời nhắc cụ thể. Tạp chí Scientific American so sánh khả năng—và những hạn chế của loài chim—đối với việc một trẻ em nắm bắt được khả năng đếm. Một "trẻ mới biết đi (toddler) được hỏi có bao nhiêu quả táo (apples) trên cây có thể trả lời: 'Một, một, một' hoặc 'Một, hai, ba'—tạo ra số lượng âm thanh lời nói tương ứng với số lượng đồ vật mà chúng nhìn thấy thay vì chỉ nói: 'Ba.'" Những con quạ cũng làm điều tương tự với tiếng kêu của chúng.

Nghiên cứu mới này do một nhóm các nhà nghiên cứu thuộc phòng thí nghiệm sinh lý động vật của Đại học University of Tübingen ở Đức thực hiện.

Heather Williams, chuyên gia ngành nhận thức động vật (animal cognition), trả lời CNN qua email: “Con người không độc quyền về các kỹ năng như tư duy số (numerical thinking), khả năng trừu tượng (abstraction), chế tạo công cụ (tool manufacture) và lập kế hoạch trước (planning ahead).” Williams, giáo sư sinh học tại Đại học Williams ở Massachusetts, không tham gia vào nghiên cứu, viết thêm: “Không ai ngạc nhiên khi biết quạ rất ‘thông minh’”.

Trong thế giới động vật, khả năng đếm không chỉ giới hạn ở loài quạ. Tinh tinh (chimpanzees) đã được dạy đếm theo thứ tự số và hiểu giá trị của các chữ số, giống như trẻ nhỏ. Trong khi đó, để cố gắng thu hút bạn tình, một số ếch đực (male frogs) đếm số lượng cuộc gọi từ những con đực cạnh tranh để phù hợp hoặc thậm chí tăng lên một con số đó khi đến lượt chúng kêu gừ gừ với một con cái. Các nhà khoa học thậm chí còn đưa ra giả thuyết rằng loài kiến ​​quay trở lại tổ của chúng bằng cách đếm bước đi, mặc dù phương pháp này không phải lúc nào cũng chính xác.

Điều mà nghiên cứu mới nhất này cho thấy là loài quạ, giống như con người, có thể học cách liên kết các chữ số với các giá trị –– và đếm (kêu lớn) thành tiếng tương ứng.

Quạ có thể đếm giống như trẻ mới biết đi (toddlers) đếm không? Tác giả chính của nghiên cứu nêu trên là Diana Liao, nhà sinh học thần kinh và là nhà nghiên cứu cấp cao tại phòng thí nghiệm Tübingen cho biết, nghiên cứu này được lấy cảm hứng từ việc trẻ mới biết đi học đếm. Trẻ mới biết đi sử dụng các từ về số để đếm số lượng đồ vật trước mặt: Nếu trẻ em nhìn thấy ba món đồ chơi trước mặt, số đếm của chúng có thể nghe giống như “một, hai, ba” hoặc “một, một, một”.

Có lẽ quạ cũng có thể đếm như vậy, Liao nghĩ. Cô cũng được truyền cảm hứng từ một nghiên cứu vào tháng 6/2005 về việc gà con điều chỉnh tiếng kêu báo động của chúng cho phù hợp với kích thước của kẻ săn mồi. Nghiên cứu cho thấy sải cánh hoặc chiều dài cơ thể của động vật ăn thịt càng lớn thì âm thanh “dee” mà gà con sử dụng trong tiếng kêu báo động của chúng càng ít. Liao cho biết điều ngược lại cũng đúng đối với những kẻ săn mồi nhỏ hơn –– những con chim biết hót sẽ sử dụng nhiều âm thanh “dee” hơn nếu chúng gặp một con chim nhỏ hơn, điều này có thể là mối đe dọa lớn hơn đối với gà con vì chúng nhanh nhẹn hơn.

Các tác giả của nghiên cứu về gà con không thể xác nhận liệu những con chim biết hót nhỏ (small songbirds) có kiểm soát được số lượng âm thanh chúng tạo ra hay số lượng âm thanh đó là một phản ứng không tự nguyện. Nhưng khả năng này đã khơi dậy sự tò mò của Liao –– liệu những con quạ, loài có trí thông minh đã được ghi nhận rõ ràng qua nhiều thập niên nghiên cứu, có thể kiểm soát khả năng tạo ra một số lượng âm thanh nhất định, nghĩa là “đếm” một cách hiệu quả như trẻ mới biết đi không?

Những con quạ đã lên kế hoạch cho số lần kêu của chúng. Liao và các đồng sự trong cuộc nghiên cứu của cô đã huấn luyện ba con quạ ăn thịt (carrion crows), một loài ở châu Âu có họ hàng gần với quạ Mỹ, thử nghiệm trong hơn 160 buổi. Trong quá trình huấn luyện, những con chim phải học cách liên kết giữa một loạt tín hiệu thị giác và thính giác từ 1 đến 4 và tạo ra số tiếng kêu tương ứng. Trong ví dụ mà các nhà nghiên cứu cung cấp, tín hiệu thị giác có thể trông giống như một chữ số màu xanh sáng và âm thanh tương ứng của nó có thể là bài hát kéo dài nửa giây của một tiếng trống (drumroll).
Các con quạ được kỳ vọng sẽ thực hiện số tiếng kêu tương tự như số được biểu thị bằng tín hiệu –– ba tiếng kêu cho tín hiệu có chữ số 3 –– trong vòng 10 giây sau khi nhìn và nghe thấy tín hiệu. Khi những con chim ngừng đếm và kêu, chúng sẽ mổ vào phím “enter” trên màn hình cảm ứng để đưa ra các tín hiệu để xác nhận rằng chúng đã hoàn thành. Nếu những con chim đếm đúng, chúng sẽ nhận được phần thưởng.

Có vẻ như khi các tín hiệu tiếp tục được đưa ra, lũ quạ mất nhiều thời gian hơn để phản ứng với từng tín hiệu. Liao viết, thời gian phản ứng của chúng tăng lên khi “có nhiều tiếng kêu hơn sắp xảy ra”, cho thấy rằng lũ quạ đã lên kế hoạch về số lượng tiếng kêu mà chúng sẽ kêu trước khi mở mỏ.

Các nhà nghiên cứu thậm chí có thể biết số lượng tiếng kêu mà các chim quạ dự định thực hiện bằng cách phát ra tiếng kêu đầu tiên của chúng –– những khác biệt âm thanh tinh tế cho thấy lũ quạ biết chúng đang nhìn vào bao nhiêu con số và đã tổng hợp thông tin.

“Các chim quạ này hiểu những con số trừu tượng… và sau đó lên kế hoạch trước khi chúng điều chỉnh hành vi của chúng sao cho phù hợp với con số đó,” Williams nói.

Ngay cả những sai lầm mà các chim quạ này mắc phải cũng có phần cao cấp (advanced) hơn: Nếu những con quạ kêu quá nhiều lần, lắp bắp về cùng một số lượng hoặc gửi câu trả lời bằng mỏ của mình quá sớm, Liao và các nhà nghiên cứu của cô có thể phát hiện ra âm thanh của tiếng kêu đầu tiên nơi các đáp ứng nàt sai. Williams nói: “Đây là những loại lỗi tương tự mà con người mắc phải”.

Các nhà khoa học vẫn đang tìm hiểu xem loài quạ thông minh thế nào. Chim và nhiều loài thú vật khác trước đây được cho là chỉ đưa ra quyết định tại chỗ dựa trên các kích thích trong môi trường trực tiếp của chúng, một lý thuyết được phổ biến bởi B.F. Skinner, một nhà khoa học nghiên cứu hành vi động vật thời thế kỷ 20. Nhưng nghiên cứu mới nhất của Liao và các đồng nghiệp của cô cung cấp thêm bằng chứng về khả năng tổng hợp các con số để kêu lên đếm của quạ và cho thấy kỹ năng này nằm trong tầm kiểm soát của chúng.

Kevin McGowan, nhà nghiên cứu tại Phòng thí nghiệm Điểu học Cornell Lab of Ornithology ở Ithaca, New York, người đã có hơn hai thập niên nghiên cứu loài quạ hoang dã trong môi trường sống của chúng, nói rằng những phát hiện của nhóm nghiên cứu của Liao rất cụ thể nhưng vẫn có ý nghĩa lớn –– chúng thách thức niềm tin phổ biến trong quá khứ rằng tất cả các loài động vật chỉ đơn thuần là những cỗ máy phản ứng với kích thích. McGowan không tham gia vào nghiên cứu của nhóm Liao.

McGowan nói với CNN rằng nghiên cứu của Liao đã chứng minh rằng “quạ không đơn giản là những cỗ máy không suy nghĩ ngoài kia chỉ biết phản ứng với môi trường của chúng –– chúng thực sự có suy nghĩ trước và có khả năng giao tiếp theo cách có cấu trúc, được lên kế hoạch trước. Đó là tiền đề cần thiết để có một ngôn ngữ.”

Nghĩa là, loài quạ có ý thức, một dạng ý thức còn thô sơ, nhưng có khả tính như một tiền đề cho một ngôn ngữ. Có vẻ như, với khoa học tiến bộ, những cuộc nghiên cứu mới đang trở thành những cách tiếp cận mới đối với Kinh Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở Hoa Kỳ, khi nghe đến cụm từ “giáo dục tổng quát,” người ta thường hình dung về những khóa học nhập môn trong các lĩnh vực nghệ thuật, nhân văn, khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và toán học. Tùy vào mỗi trường, chương trình này có thể mang những cái tên khác nhau như “chương trình căn bản” (core curriculum) hay “các môn học bắt buộc” (distribution requirements). Ngoài ra, chương trình này đôi khi còn có một tên gọi khác là “giáo dục khai phóng” (liberal education). Hội các trường Cao đẳng và Đại học Hoa Kỳ (American Association of Colleges and Universities, AACU) mô tả đây là chương trình giúp bồi dưỡng “tinh thần trách nhiệm xã hội, cùng với các kỹ năng trí tuệ và thực tiễn vững vàng có thể vận dụng linh hoạt.”
Trong nhiều năm kể từ khi Jeffrey Epstein được phát hiện chết trong phòng giam tại Metropolitan Correctional Center (MCC), New York, giới chức liên bang luôn khẳng định rằng cái chết này là một vụ tự sát. Tuy nhiên, một cuộc điều tra độc lập do CBS News thực hiện đã phơi bày hàng loạt mâu thuẫn giữa các tuyên bố của chính phủ và những gì thực sự hiện ra trong đoạn phim giám sát vừa được công bố.
Cuối mùa Hè năm 1955, Till-Mobley tiễn con trai của bà, Emmett Till 14 tuổi lên một chuyến tàu từ Chicago đến thăm chú và các anh em họ của Emmett ở quê hương Mississippi của bà. Giống như những phụ nữ và đàn ông da đen nói với con cái họ về việc chú ý các điểm dừng giao thông và các cuộc chạm trán khác với cảnh sát, Till-Mobley đã căn dặn Emmett rất kỹ. Bà cho cậu biết cậu đang đi đến một nơi mà an toàn phụ thuộc vào khả năng kiềm chế sự bốc đồng, tính cách không khuất phục của cậu với người da trắng. Linh cảm của người mẹ mang đến trong lòng bà nỗi bất an không giải thích được. Bà đưa cho Emmett chiếc nhẫn bạc của ông Louis Till, cha của cậu. Chiếc nhẫn khắc chữ L.T.
“Đi về Miền Nam, miền hương thơm bông lúa tràn ngập đầy đồng; Đi về Miền Nam, miền xinh tươi đất rộng cùng chung nguồn sống” Và cứ như thế, với tiếng hát trong tâm tưởng, từng đoàn người gồng gánh ra đi. Họ đi về hướng Nam giống như cha ông của mình từ bao nhiêu thế kỷ trước. Bây giờ lại còn một động lực mới và mãnh liệt khác, đó là đi tìm tự do: ‘chúng tôi muốn sống!’, như tên gọi một cuốn phim nổi tiếng của đồng bào di cư sau này. Cuối tháng 6, dù hiệp định đình chiến chưa ký kết nhưng quân đội Pháp và Quốc gia đã rút lui khỏi nhiều địa điểm ở đồng bằng Bắc Việt nên nhiều người bắt đầu di tản về các đô thị, đặc biệt là Hải phòng.
Cõi này ngày càng bất an! Tình trạng hâm nóng toàn cầu đã dẫn tới nhiều thảm họa như bão lụt, hạn hán, mực nước biển dâng cao, dịch bệnh, mất mùa, đói khát lầm than. Chiến tranh thù hận ngày càng hung bạo đã làm cho hàng triệu người thương vong, nhà cửa ruộng vườn bị phá hoại. Các chế độ độc tài, quân phiệt, và nạn kỳ thị sắc tộc đã thẳng tay đàn áp dân lành. Tất cả những điều trên đã dẫn đến thảm trạng bỏ nước đi của hàng triệu người trên thế giới! Theo Population Division of the United Nations Department of Economic and Social Affairs (UNDESA), năm 2024 có tới 304 triệu di dân trên toàn cầu, là một con số tăng gần gấp đôi kể từ năm 1990, khi lúc đó có 154 triệu di dân trên thế giới. Đó là 3.7% tổng dân số địa cầu. Theo Cơ Quan Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, tính tới cuối năm 2024, có 43.7 triệu người tị nạn, gồm 6 triệu người tị nạn từ Palestine và 8 triệu người xin được nhận vào quy chế tị nạn trên toàn cầu.
Trong số người Việt, thế hệ thứ nhất có 29% học xong cử nhân hay cao hơn. Thế hệ sinh ra lớn lên tại Hoa Kỳ con số này là 59%. Như thế có thể lý giải là phụ huynh không có cơ hội học cao nhưng khuyến khích con theo đuổi đường học vấn cho tương lai.
Khi các chuyên gia quan ngại về mối quan hệ của giới trẻ với thông tin trực tuyến, họ thường cho rằng giới trẻ tuổi không hiểu biết về phương tiện truyền thông như những người lớn tuổi hơn. Nhưng công trình nghiên cứu dân tộc học do Jigsaw – cơ sở công nghệ của Google - thực hiện lại tiết lộ một thực tế phức tạp và tinh tế hơn: Thế hệ Z, thường được hiểu là những người sinh sau năm 1997 và trước năm 2012, đã phát triển các chiến lược khác biệt rõ rệt để đánh giá thông tin trực tuyến, những chiến lược sẽ khiến bất kỳ ai trên 30 tuổi trở nên bối rối. Họ không tiếp thu thông tin như những người lớn tuổi hơn bằng cách đầu tiên đọc tiêu đề và sau đó là nội dung.
Người Việt Nam không ai xa lạ với từ ‘Gulag’ - trại tù lao động khổ sai khét tiếng của Liên Bang Xô Viết. Ước tính trong khoảng hai thập niên từ 1930-1953, nơi đây giam giữ khoảng 4 triệu tù nhân; 1.5 triệu đã chết trong tù hay sau khi được thả một thời gian ngắn. Gulag từng được xem là địa ngục trần gian, là biểu tượng cho sự tàn bạo của nhà tù cộng sản. Trong những ngày cuối tháng 6, khi mà người dân Mỹ chuẩn bị pháo hoa đón mừng Lễ Độc Lập, cái tên Gulag được sử dụng khi nói đến một nhà tù mới được hình thành ở Florida. Nhà tù này có tên gọi là Alligator Alcatraz. Trong một bài viết được đăng trên trang mạng Amrican Community Media ngày 30/06/2025, nhà báo Laszlo Bartus đã cảnh báo rằng nó sẽ là nhà tù vô nhân đạo nhất thế giới.
Trong hơn bảy mươi năm qua, quan hệ giữa Hoa Kỳ và Iran đã trải qua nhiều bước ngoặt – từ một liên minh chiến lược thời Chiến tranh Lạnh, đến một trong những nước đối đầu gay gắt và kéo dài nhất của thời đại hậu thuộc địa. Bản tóm lược dưới đây ghi lại những cột mốc chính từ năm 1953 đến 2025, nhằm cung cấp một cái nhìn toàn diện về diễn biến phức tạp của quan hệ Hoa Kỳ–Iran trong bối cảnh biến động địa chính trị toàn cầu.
Tháng 5 vừa qua, một chuyến bay từ Johannesburg, Nam Phi đã đáp xuống phi trường Quốc tế Dulles, Hoa Kỳ. Trên phi cơ là khoảng 50 công dân Nam Phi da trắng thuộc cộng đồng Afrikaner. Những người này cho biết sinh kế của họ đang bị đe dọa nghiêm trọng do xã hội ngày càng “kỳ thị người da trắng.” Cách mô tả tình hình Nam Phi như vậy ngay lập tức nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ từ các nhà bình luận cánh hữu có ảnh hưởng ở Mỹ như Tucker Carlson, Charlie Kirk, và Stephen Miller.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.