Hôm nay,  

Nhân ngày 20 tháng 7, kể chuyện những ngày chia đôi đất nước 1954

20/07/202408:33:00(Xem: 2605)
Tạp bút

uan

Năm Giáp Ngọ 1954 có thể gọi là năm đại diện cho tuổi thơ tôi. Chỉ trong một năm 1954 đã có quá nhiều biến cố xảy ra dồn dập trước mắt chú bé mười hai tuổi mà suốt trong đời chưa có thời điểm nào đặc biệt như vậy. Trong ý nghĩa lịch sử, đó là năm cuối cùng áp dụng chương trình giáo dục Hoàng Xuân Hãn có điều chỉnh. Là năm có Hiệp Định Genève chia đôi đất nước, lấy con sông Bến Hải làm ranh giới, với làn sóng một triệu người di cư từ Miền Bắc vào Nam cùng với nhiều người tập kết ra Bắc. Cũng là năm ông Ngô Đình Diệm về nước chuẩn bị thành lập nước Việt Nam Cộng Hòa. Trong hạn hẹp bản thân, 1954 là năm học cuối cùng của tôi ở bậc tiểu học – lớp Nhất trường An Hòa, rồi thi đỗ tiểu học, sau đó thi đỗ vào lớp đệ thất trường Ngô Đình Diệm, sau đổi là Quốc Học. Đây là lớp đệ thất đầu tiên và cũng là cuối cùng của trường Quốc Học trước 1975. Thầy Nguyễn Bá Nhiệm, phụ huynh thường gọi là thầy Trợ Nhiệm, vừa là hiệu trưởng vừa dạy chúng tôi lớp Nhất đã để lại quá nhiều kỷ niệm cho học trò trường An Hòa vào năm 1954 và tại lớp chúng tôi. Bóng dáng thầy luôn luôn, trực tiếp hoặc gián tiếp, đứng đằng sau các sự kiện sôi động của năm 1954 tại trường.
    Làn sóng người di cư từ Bắc vào Nam sau hiệp định Genève để lại trong tôi kỷ niệm đáng nhớ tại một làng quê Thừa Thiên. Bọn nhỏ chúng tôi đã có dịp gặp từng nhóm nhỏ những người dân di cư từ Miền Bắc đi vào thôn xóm. Những bà mặc váy  nâu. Đàn ông quần áo luộm thuộm. Dưới mắt dân quê sống trong các lũy tre làng suốt đời không giao lưu với ai, những người di cư không khác người từ một đất nước xa xôi nào đó đến với họ. Họ đâu biết đây là những người tình nguyện vào Nam xây dựng chế độ Cộng Hòa. Trong lớp, chúng tôi tập hát quốc ca “Này Công Dân ơi…”. Thầy giáo nói chuyện với học trò về tiểu sử chí sĩ Ngô Đình Diệm. Một đại đội lính từ miền Bắc vào đóng quân tạm gần trường học, thường xếp đội hình tập luyện chuẩn bị duyệt binh. Tôi còn nhớ câu chuyện xảy ra với cậu bé Vinh, anh họ tôi, bị ông hiệu trưởng tát một cú trời giáng vào má.
    Buổi sáng chào cờ trong sân trường, hiệu trưởng giới thiệu lá quốc kỳ, và đặt câu hỏi về ý nghĩa của lá cờ vàng ba sọc đỏ. Có lẽ bị cán bộ Việt Minh tuyên truyền trước đó, cậu bé Vinh đã dại dột vọt miệng: Cờ ba que. Hiệu trưởng nghe được, đã tát Vinh một tát với thái độ giận dữ, nhưng một lúc sau, khi vào lớp ngồi im lặng suy tư, thầy gọi bé Vinh vào đứng trước mặt và dạy cho cậu bài học không nằm trong chương trình. Như một người cha nhân từ trước một đứa con bé bỏng, thầy dặn nó, con còn nhỏ không được nghe lời ai nói chuyện chính trị như vậy. Bé Vinh vòng tay cúi đầu hứa với thầy không phát ngôn bừa bãi nữa. Thầy giảng cho nó biết, lúc này là buổi giao thời, xã hội còn nhiều chuyện phức tạp xảy ra không lường trước được, phải thận trọng lời ăn tiếng nói.
    Đúng như lời thầy, ban đêm cán bộ Việt Minh họp dân làng giải thích đất nước chỉ chia cắt tạm thời theo hiệp định Genève, họ chỉ tập kết ra Bắc bên kia sông Bến Hải, hai năm sau sẽ có tổng tuyển cử thống nhất đất nước và sẽ trở về đoàn tụ… Ban ngày, loa phóng thanh từ các góc ngã tư, chợ, bến xe rầm rộ tố cáo miền Bắc độc tài, đói khổ, chủ nghĩa tam vô…, ca tụng tài đức Ngô chí sĩ… Còn nhớ vào mấy đêm trăng thu, bọn nhỏ chúng tôi từng đến một ngôi làng lân cận  xem đội văn nghệ sáu thiếu nhi trai gái của mấy ông cán bộ nằm vùng Việt Minh nhảy điệu Re Fa Sol.
    Buổi giao thời chia đôi đất nước ảnh hưởng rõ rệt lên một cậu bé từ làng chài ven biển học cùng lớp với tôi. Ngôi làng chịu nhiều ảnh hưởng của kháng chiến. Sau Genève, cậu bé lặng lẽ bỏ làng chài đến ăn ở tại một ngôi chùa để tiếp tục việc học. Tại đây, hắn kể nhiều câu chuyện xảy ra ở làng chài ven biển. Làng hắn có nhiều người tập kết ra Bắc. Một vài gia đình vội vã khăn gói ra đi giữa đêm khuya như chạy trốn. Tôi nói, làng tôi cũng có người tập kết, như gia đình cậu tôi có chú Trâu con nuôi của cậu. Trước khi tập kết, chú Trâu vẫn đến từ giã mẹ tôi, ra đi bình thường, đâu cần phải lén lút chạy trốn. Hắn bảo, mi không biết gì cả. Gia đình nào khăn gói kéo nhau đi sạch trơn, đó là gia đình có cha anh là cán bộ quan trọng hoạt động kháng chiến đã bị dân làng biết rõ, tức là đã bị lộ. Nếu không tập kết toàn bộ, người ở lại khó sống với chính quyền mới. Hắn nói, bên họ (kháng chiến) đã có lệnh bắt buộc những gia đình loại này phải tập kết. Ra thế. Hắn còn kể nhiều chuyện kín khác nữa tôi không nhớ hết. Ban ngày bọn nhỏ chúng tôi lại vui thích kéo nhau đi tập hát… Trăng trung thu Miền Nam. Ngời tươi sáng, sáng trong lòng ta. Ca vang lên ước nguyện chung xây nền Cộng Hòa Tự Do…
    Trở lại chuyện bé Vinh bị tát tai. Hiệu trưởng đã cắt cử nó vào đội tuyên truyền cổ động ngày trở về của cụ Ngô. Sau chuyến di hành cổ động, nó đã tường thuật cho các bạn cùng lớp nghe… Đội gồm mười nam nữ thiếu nhi đại diện các lớp trong trường tiểu học. Tất cả tập trung tại một ngã ba trạm dừng xe buýt. Một xe dodge nhà binh có gắn loa phóng thanh, chở theo máy phát điện. Hai băng biểu ngữ chào mừng Ngô chí sĩ treo sát hai bên thành xe phía ngoài. Trưởng đoàn, một thiếu uý trẻ tuổi, với bộ quân phục chỉnh tề ngồi ghế trước cạnh tài xế. Mười thiếu nhi nam nữ lên ngồi trên hai hàng ghế đối diện phía sau. Mỗi em ngoe nguẩy trên tay một lá cờ vàng ba sọc đỏ và được phát cho một ổ bánh mì thịt…
    Xe khởi hành đúng bảy giờ rưỡi sáng, chạy về hướng Bao Vinh. Loa phóng thanh vang lên bản hùng ca suy tôn Ngô chí sĩ. Ông thiếu úy cho rải truyền đơn dọc đường. Qua khỏi Bao Vinh, đến Địa Linh, xe dừng lại. Loa phóng thanh vang lên giọng người sĩ quan đọc tiểu sử cụ Ngô. Sau mỗi lần đọc xong tiểu sử, ông ta chuyền micro xuống hai hàng ghế phía sau cho nhóm thiếu nhi hát đồng ca những bài hát ca ngợi tài đức…, những bài hát bọn nhỏ đã tập luyện thuần thục ở Trường. Người dân tươi cười đứng nhìn bọn nhỏ phất cờ ca hát. Xe dừng một chốc. Lại đọc tiểu sử, ca bài suy tôn.
    Lúc xe ra khỏi Địa Linh,trời chuyển mưa lớn. Xe chạy ngược chiều gió bắc. Tấm bạt che không ngăn được nước tạt vào. Bọn nhỏ ngồi co cụm tránh mưa. Xe lăn bánh trên con đường rải đá lởm chởm. Ông thiếu úy tắt máy phát điện. Xe lắc lư vượt qua làn mưa ngược chiều. Bên ngoài, con đường băng ngang cánh đồng lúa non. Xa xa vài thửa ruộng hoang bao phủ bằng một màn nước đục vàng. Phía biển, lẩn khuất sau lũy tre làng là những mái ngói đỏ au, những mái tranh đen xám. Phía bắc, làn mưa mù phủ kín đến tận chân trời…
    Sau hai giờ ngồi trên xe cổ động, bọn nhỏ dùng bữa trưa với thức ăn nước uống mang theo. Mười giờ sáng, mưa bớt nặng hạt. Xe đến Sịa, một địa danh bọn nhỏ chưa lần nào đặt chân đến. Chúng có dịp trông rõ chiếc thuyền cá giăng câu với năm ba người kéo lưới lên bờ. Người dân với nón lá, chân đất, áo quần lem luốc…
    Ông thiếu úy trưởng đoàn ngồi ăn nghỉ bên bờ phá Tam Giang, gần bến đò Sịa – Thế Chí… Phá Tam Giang chỉ rải rác một vài thuyền câu giăng lưới. Chừng nửa giờ sau, xe quay lại đậu ngay tại chợ Sịa – giữa buổi trưa vẫn có đông người mua bán… Bỗng dưng trời nắng sáng, cơn mưa dứt hẳn. Máy phát điện khởi động. Loa phóng thanh lại mở hết công suất. Giọng ông thiếu úy vang lên, làm khuấy động một vùng yên tĩnh, đánh thức người dân khu chợ ra khỏi nhà, tụ họp bên đường đứng nghe tin tức. Bọn nhỏ vỗ tay hát theo nhip những bài hát cổ động. Lúc xuống xe đi bộ, mỗi em đều cầm sẵn ảnh cụ Ngô và truyền đơn đi vào các nhà dọc đường phố phát cho dân…
    Ông thiếu úy đến trụ sở xã bàn chuyện gì đó trước khi trở lại bật máy phóng thanh cho đợt cổ động cuối cùng. Khi ông thiếu úy tắt máy phóng thanh, chuyến di hành kết thúc. Bọn nhỏ lên xe. Xe vòng lên quốc lộ Nam Bắc hướng về thành phố Huế và  trở về nơi xuất phát lúc 4 giờ chiều cùng ngày, chấm dứt cuộc di hành. Mười tên thiếu nhi trường tiểu học An Hòa đã có mặt vào thời điểm chuyển mình của lịch sử ngày chia đôi đất nước…
    Cũng chính cậu bé Vinh đã mang thơ của Thế Viên về làng. Một hôm bé Vinh từ trường học về, cho tôi tập thơ tuyên truyền của Ty Thông tin Thừa Thiên Huế, cổ vũ phong trào di cư. Đó là tập thơ của nhà thơ  Thế Viên, Phạm Đình Bách… Ở Sài Gòn lúc đó, Mai Thảo với Đêm Giã Từ Hà Nội cũng được nhà nước Đệ nhất cộng hòa in cả trăm ngàn bản, giúp nhà văn Mai Thảo trở thành nhà giàu Nguyễn Đăng Quý ăn chơi phè phỡn. Văn  thơ tuyên truyền của Mai Thảo, Thế Viên lạ thay, không phải là loại rẻ tiền. Những câu thơ của Thế Viên không ngờ lại gây mầm thơ cho tôi lúc học lớp Nhất trường tiểu học An Hòa. Tôi vẫn còn nhớ những câu thơ Thế Viên:
 
Em vào đây
Chim ca vạn lối
Sông núi cười vang dội sóng trùng dương
Hà Nội xưa ba mươi sáu phố phường
Rũ áo lên đường
Em nhớ gì không
 
Đây xuân thắm tóc bồng
Còn xuân ngoài ấy bên sông rũ buồn
Núi Nùng trắng đục mù sương
Cửa ô hoa khép mưa tuôn lệ người
Miền Bắc khổ lắm em ơi
Xuân về ai chép những lời thơ xuân
Quê Nam hoa sáng tưng bừng
Xuân về ta chép muôn vần thơ yêu
Dù cho gió sớm mưa chiều
Hoa xuân vẫn nở diễm kiều khắp nơi
 
Em vào đây
Nắng đẹp núi đồi
Trăng soi bến nước
Lúa Đồng Nai xanh mướt cuối trời sâu
Cheo leo tre uốn nhịp cầu
Xứ Dinh vẫn đẹp miếng trầu đưa duyên
 
Em vào đây
Xuân thắm tóc huyền
Bài ca viễn xứ không nghiêng mắt sầu
Em vào đây hết thương đau
Thuyền thương mở rộng con tàu ra khơi…
 
Quê tôi ngày ấy tìm đâu ra những câu thơ như vậy. Phải chăng vì bài thơ tuyên truyền nói trên mà Thế Viên, sau 1975, phải đi học tập cải tạo để chết rục trong tù ? Cũng may, Mai Thảo đã trốn thoát trong đường tơ kẽ tóc để vượt biên qua Mỹ, làm sống lại tạp chí Văn nổi tiếng trước 1975…
 

– Phan Tấn Uẩn

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi bị bắt tại huyện Tân Hiệp chiều ngày hai mươi, giáp Tết. Lý do, mang theo hàng không giấy phép. Thế là tiêu tan hết vốn lẫn lời mà tôi chắt chiu, dành dụm gần cả năm nay. Nhớ đến mẹ và gia đình trong những ngày Tết sắp tới, tôi vừa buồn vừa tức đến bật khóc. Xui rủi, biết trách ai. Tiễn, anh phụ lơ, đã cẩn thận cất dấu hàng cho tôi, vã lại anh cũng quá quen biết với đám công an trạm kiểm soát. Không ngờ chuyến nầy bọn công an tỉnh xuống giải thể đám địa phương, nên tôi bị “hốt ổ” chung cả đám. Đây không phải là lần đầu bị bắt, nhưng lại là lần đầu tiên tôi đi chuyến vốn lớn như vầy. Năm ký bột ngọt, năm ký bột giặt, hơn chục ống thuốc cầm máu và trụ sinh hàng ngoại. Bột ngọt, bột giặt không nói gì, nhưng hai thứ sau hiếm như vàng mà giới “chạy hàng” chúng tôi gọi là “vàng nước”. Nên thay vì đưa về khu tạm giam huyện chờ lập biên bản, hồ sơ xét xử tôi nghe bọn công an thì thầm, bàn tán giải thẳng về khám lớn tỉnh Rạch Giá.
Quỳnh Lâm báo tin sẽ đến Đức trong tuần lễ đầu tháng 10. Nisha vội vàng thu xếp “sự vụ lệnh“ để công du sang Đức. Nisha lo đi chợ sắm sửa đầy mấy tủ lạnh, tủ đá, để mấy cha con sống còn trong thời gian nữ tướng đi xa. Chúng tôi hồi hộp quá, ngày nào cũng thư từ, nhắn nhủ, dặn dò đủ điều tẳn mà, tẳn mẳn. Điện thư qua, về hoa cả mắt. Thư nào chúng tôi cũng nhắc nhở nhau giữ gìn sức khoẻ, vì đứa nào cũng “lão” rồi. Khi gặp nhau, tụi tôi nhất thiết phải đầy đủ tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện. Có hôm, đến trưa, chưa nghe tăm tiếng, tôi sốt ruột, xuất khẩu làm thơ... bút tre:
Sống ở đây an toàn và bình an gần như một trăm phần trăm trong hiện tại và tương lai, nhưng không thể bình thản hóa quá khứ. Cuộc chiến khốc liệt giữa thiên thần và ma quỉ luôn ám ảnh ông. Có những điều gì thao thức, âm thầm nghi hoặc, nhoi nhúc sâu thẳm trong ông. Lòng tin vào ông Gót có phần nào lung lay. Đông cảm thấy có lỗi khi nghi ngờ bố, người đã giúp đỡ, bảo vệ ông và Vá. Nhưng nghi ngờ là một thứ gì không thể điều khiển, không thể đổi đi, không thể nhốt lại. Nó vẫn đến, mỗi lần đến nó vạch rõ hơn, nhưng vẫn mù sương như đèn xe quét qua rồi trả lại sương mù.
Trâm gật đầu nhè nhẹ. Đoan nghĩ thật nhanh đến một cảnh diễn ra mỗi đầu tháng trong sân trường. Nơi đó, các sinh viên xúm xít cân gạo và các loại “nhu yếu phẩm”, mang phần của mình về nhà. Rồi thì trong khu phố, cảnh những người dân xếp hàng “mua gạo theo sổ” cũng diễn ra mỗi ngày. Nói “gạo” là nói chung thôi, thật ra trong đó phần “độn” chiếm đa số. Phần “độn” có thể là bo bo, có thể là bột mì, cũng có thể là khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô. Nồi cơm nấu từ gạo và một thứ khác được gọi là nồi “cơm độn.” Mỗi ngày hai bữa cơm độn. Bo bo thì quá cứng vì vỏ ngoài chưa tróc, nấu trước cho mềm rồi cho gạo vào nấu tiếp, trở thành một “bản song ca” chói tai. Khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô thường bị sượng, ghế vào cơm rất khó ăn. Chỉ có bột mì tương đối dễ ăn hơn, vì người nấu có thể chế biến thành bánh mì, nui hay mì sợi
Mùa đông, tuyết đóng dầy trên mái nhà. Ấy là lúc bà ngoại cũng lo là lũ chim - những con chim của ngoại - sẽ chết cóng. Nhưng bà không biết làm gì để cứu chúng nó. Ngoại đi tới đi lui từ phòng khách qua nhà bếp. Thở dài. Rên rỉ. Rồi lẩm bẩm, “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.” Bà ngoại tội nghiệp những con chim chết lạnh. Sinh nhật ngoại, chúng tôi chung tiền mua quà. Một con sáo trong chiếc lồng tuyệt đẹp. Bà ngoại cưng nó hơn cưng chị em tôi. Cho nó ăn, ngắm nghía bộ lông đầy màu sắc của nó. Chăm chú lắng nghe tiếng hót véo von lúc chớm nắng bình minh và buổi hoàng hôn nắng nhạt. Rồi một buổi sáng nọ tiếng chim thôi líu lo. Bà ngoại chạy ra phòng khách. Hấp tấp tuột cả đôi guốc mộc. Con chim sáo nằm cứng sát vách lồng. Hai chân duỗi thẳng. Cổ ngoặt sang một bên. Con chim của ngoại đã chết. Bà ngoại buồn thiu cả tuần lễ. Bố mẹ tôi bàn tính mua con chim khác. Bà gạt ngang.
Tôi là người viết báo nghiệp dư. Từ khi khởi viết vào năm 1959, tay cầm viết luôn là nghề tay trái. Tôi sống bằng nghề tay phải khác. Cho tới nay, nghề chính của tôi là…hưu trí, viết vẫn là nghề tay trái. Tôi phân biệt viết báo và làm báo. Làm báo là lăn lộn nơi tòa soạn toàn thời gian hoặc bán thời gian để góp công góp sức hoàn thành một tờ báo. Họ có thể là chủ nhiệm, chủ bút, tổng thư ký, thư ký tòa soạn hay chỉ là ký giả, phóng viên. Nhưng tôi nghĩ người quan trọng nhất trong tòa soạn một tờ báo là ông “thầy cò”. Thầy cò ở đây không có súng ống hay cò bóp chi mà là biến thể của danh từ tiếng Pháp corrector, người sửa morasse. Morasse là bản vỗ một bài báo cần sửa trước khi in.
Sáu tuần. Nàng đã đi ra khỏi mụ mị từ trong mối tình hiện tại của mình. Cô bạn gái hỏi "Tỉnh chưa?". Tỉnh rồi, nhưng tỉnh không có nghĩa không yêu anh ấy nữa, chỉ là không còn mụ mị mê muội nữa thôi...
Trong bóng tối dày đặc, dọ dẫm từng bước một, hai tay vừa rờ vào hai bên vách hang động, vừa quơ qua quơ lại trước mặt, dù cố mở mắt lớn, chỉ thấy lờ mờ, nhiều ảo ảnh hơn là cảnh thật. Cảm giác bực bội vì đã trợt té làm văng mất ba lô, mất tất cả các dụng cụ, thực phẩm và nước uống cần thiết. Bối rối hơn nữa, đã rớt chiếc đèn bin cầm tay, mất luôn chiếc đèn bin lớn mang bên lưng và máy liên lạc vệ tinh có dự phòng sóng AM. Giờ đây, chỉ còn ít vật dụng tùy thân cất trong mấy túi quần, túi áo khoát và hoàn toàn mất phương hướng. Chỉ nhớ lời chỉ dẫn, hang động sẽ phải đi lên rồi mới trở xuống. Trang nghĩ, mình có thể thoát ra từ lối biển. Là một tay bơi có hạng, nàng không sợ.
Cô người Nha Trang, lớn lên và đi học ở đó. Cô sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, mẹ cô đi dậy học, ông thân cô cũng là hiệu trưởng một trường trung học lớn ở Phú Yên. Năm 22 tuổi, cô học năm cuối đại học văn khoa Huế thì gặp gỡ chú Hiếu trong một dịp hội thảo sinh viên do các biến động thời cuộc miền Trung bắt đầu nhen nhúm. Chú Hiếu lúc đó đang theo cao học luật. Họ thành đôi bạn tâm giao tuổi trẻ, sau thành đôi uyên ương. Ba năm sau khi Trang vừa 25 tuổi, Hiếu đã nhậm chức chánh án tòa thượng thẩm.
Nhà trẻ kế bên bệnh xá. Trong góc một trại giam. Nhà trẻ có sáu đứa con nít. Bệnh xá có mấy bệnh nhân già. Coi bệnh xá là một tù nam nguyên là y tá ngoài đời. Coi nhà trẻ là một tù nữ án chung thân. Coi cả hai nơi ấy là một công an mà mọi người vẫn gọi là bác sĩ! Sáu đứa con nít đều là con hoang. Mẹ chúng nó là nữ tù bên khu B, đừng hỏi cha chúng đâu vì chúng sẽ không biết trả lời thế nào. Cũng đừng bao giờ hỏi mẹ chúng nó về chuyện ấy vì rằng đó là chuyện riêng và cũng là những chuyện rất khó trả lời. Thảng hoặc có ai đó được nghe kể thì lại là những chuyện rất tình tiết ly kỳ lâm ly bi đát… chuyện nào cũng lạ, chuyện nào cũng hay
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Ông Hải đứng trước của nhà khá lâu. Phân vân không biết nên mở cửa vào hay tiếp tục đi. Tâm trạng nhục nhã đã ngui ngoai từ lúc nghe tiếng chim lạ hót, giờ đây, tràn ngập trở lại. Ông không biết phải làm gì, đối phó ra sao với bà vợ béo phì và nóng nảy không kiểm soát được những hành động thô bạo.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.