Hôm nay,  

Ám Sát Chính Trị: “Cái Gai Nhức Nhối” Không Của Riêng Hoa Kỳ

26/07/202400:00:00(Xem: 1964)

am sat chinh tri

Các vụ ám sát chính trị đã xảy ra từ rất lâu trong lịch sử nhân loại. (Nguồn: pixabay.com)

 
Từ khi Julius Caesar lìa đời với câu “Et tu, Brute?” (xin tạm dịch: “Cả ngươi nữa sao, Brutus?”), các vụ ám sát chính trị đã không phải là chuyện gì hiếm có.
 
Nhưng liệu với sự phát triển của xã hội thời hiện đại, số lượng các vụ ám sát chính trị có giảm bớt hay không? Liệu vụ ám sát bất thành cựu Tổng thống Donald Trump có phải là một sự kiện ngoại lệ trong các nền dân chủ hiện đại?
 
Câu trả lời ngắn gọn là không.
 
Tất nhiên, Hoa Kỳ có “bề dày lịch sử” không hay ho gì với các vụ ám sát và âm mưu ám sát, điển hình như Tổng thống Abraham Lincoln, Tổng thống John F. Kennedy và em trai Robert F. Kennedy, nhà hoạt động dân quyền Martin Luther King Jr., và gần đây hơn là Tổng thống Ronald Reagan. Nhưng thành thật mà nói, chuyện ám sát không phải chỉ riêng Hoa Kỳ mới có. Và có một sự thật là: hiếm khi các vụ ám sát mang lại kết quả đúng như sở nguyện của thủ phạm.
 
Thế nào thì được tính là một vụ ám sát?
 
Ám sát là hành vi giết một người nổi tiếng, có quyền lực, thường là các chính trị gia. Đây không phải là các cuộc tấn công ngẫu nhiên, mà là một phương thức phản đối cực đoan, dựa trên niềm tin rằng loại bỏ một người nào đó sẽ có thể thay đổi tình hình chính trị.
 
Tuy nhiên, không phải tất cả các vụ sát hại chính trị gia đều được coi là ám sát. Thí dụ, một số nước thường ra lệnh xử tử ai đó ngoài vòng pháp luật (chẳng hạn như nước Nga dưới thời Putin xảy ra kha khá các vụ “tai nạn” như bị trúng độc, bị bắn, tai nạn xe, tai nạn máy bay và cả bị rớt lầu) và đáng tiếc là tình hình này ngày càng phổ biến.
 
Thủ tướng Canada Justin Trudeau gần đây cáo buộc Ấn Độ đã ra lệnh ám sát một nhân vật ly khai Sikh tại Canada. Nhà báo Jamal Khashoggi bị sát hại trong ĐSQ Ả Rập Saudi tại Istanbul – tình báo Hoa Kỳ cho rằng việc này đã được Thái tử Ả Rập Saudi “gật đầu.”
 
Hoa Kỳ cũng đã nhiều lần cho tiến hành các vụ xử tử ngoài vòng pháp luật để tiêu diệt các mục tiêu quan trọng như Osama Bin Laden. Israel cũng thường xuyên tiến hành các vụ giết chóc đối với các mục tiêu ở nước ngoài.
 
Các vụ ám sát thường là những hành động bạo lực bất hợp pháp do những cá nhân không thuộc cơ quan, bộ phận chính thức của nhà nước thực hiện. Thường thì những người này không đồng tình với cách điều hành của các nhà lãnh đạo, và muốn ám sát họ như một cách để phản đối hoặc thay đổi tình hình chính trị.
 
Và các vụ ám sát cũng bác bỏ quan điểm cho rằng chỉ nhà nước mới có quyền hợp pháp sử dụng bạo lực. Khái niệm này được gọi là “sự độc quyền về bạo lực của nhà nước” (a state monopoly on violence).
 
Diễn tiến của các vụ ám sát chính trị theo thời gian
 
Trước thế kỷ 20, thời hoàng kim của các chế độ quân chủ hùng mạnh ở Âu Châu, các nhóm cách mạng thường thực hiện các vụ ám sát để chứng minh cho người dân thấy rằng, vua chúa và quan lại dù quyền lực đến đâu thì cũng chỉ là phàm nhân, vẫn có thể bị giết như thường.
 
Theo một sử gia, vào cuối thế kỷ 19, các nhóm cách mạng đã cố gắng ám sát “hầu như tất cả các nhà cầm quyền và nguyên thủ quốc gia lớn của Âu Châu.” Thí dụ, nhóm cách mạng Nga People's Will đã hành thích Sa hoàng Alexander II vào năm 1881; hay như các nhóm cách mạng ở Ý ám sát thành công Nữ hoàng Elisabeth của Đế quốc Áo-Hung vào năm 1898.
 
Những sát thủ, thích khách thời đó đều là những người nhiệt thành theo chủ nghĩa dân tộc. Có lẽ trường hợp nổi tiếng nhất là Gavrilo Princip, người Serbia, đã hành thích Thái tử Franz Ferdinand của Áo Quốc, châm ngòi cho Thế Chiến I.
 
Sau chiến tranh, các nhóm bán quân sự phát xít và tiền phát xít ở Ý và Đức tiếp tục sử dụng những vụ ám sát chính trị để khủng bố và gieo rắc sợ hãi khắp nơi. Năm 1919, hai nhà xã hội Rosa Luxemburg và Karl Liebknecht bị sát hại ở Berlin bởi các nhóm cực hữu. Trước khi nước Ý hoàn toàn rơi vào chế độ độc tài phát xít, nhà xã hội nổi tiếng Giacomo Matteotti đã bị tay chân của Benito Mussolini ám sát ở Rome.
 
Sang đến Thế Chiến II, các nhóm kháng chiến đã cố gắng ám sát nhiều tướng tá của Đức Quốc xã, điển hình là vụ giết Reinhard Heydrich (thủ lãnh lực lượng an ninh của Đức Quốc xã, tay sai thân cận của Hitler và là “kiến trúc sư” của thảm kịch Holocaust) diễn ra ở Prague vào tháng 5/1942; đến nay sự kiện này vẫn là một ngày lễ kỷ niệm ở Cộng hòa Séc.
 
Sau chiến tranh, các nhóm cực tả bắt đầu coi ám sát là một chiến thuật chính trị. Từ những năm 1970 đến 1990, Phía Hồng Quân (Red Army Faction, RAF) ở Đức đã ám sát nhiều nhân vật quan trọng. Tương tự, Chiến Đoàn Đỏ (Red Brigades) ở Ý cũng đã ám sát Thủ tướng Aldo Moro năm 1978. Ở Hoa Kỳ, Sara Jane Moore và Lynette “Squeaky” Fromme đều cố gắng ám sát Tổng thống Gerald Ford vào năm 1975 với hy vọng có thể châm ngòi cho một cuộc cách mạng.
 
Giết người vì yêu nước?
 
Các nhóm cách mạng thì sử dụng bạo lực để đạt mục tiêu chính trị, còn các nhóm theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan cũng không ngừng những toan tính ám sát. Một thí dụ nổi bật là sau khi Ấn Độ giành độc lập từ Anh, lãnh tụ Mahatma Gandhi bị ám sát bởi một phần tử cực đoan Hindutva vì cho rằng Gandhi đã thúc đẩy sự hòa hợp Hồi giáo-Hindu.
 
Ấn Độ còn có nhiều vụ ám sát khét tiếng khác như Thủ tướng Indira Gandhi bị giết bởi các vệ sĩ theo Sikh giáo vào năm 1984; rồi đến năm 1991, con trai bà là cựu thủ tướng Rajiv Gandhi cũng bị ám sát bởi một kẻ đánh bom tự sát thuộc tổ chức Tamil Tigers khi đang vận động tranh cử. Vụ ám sát này xảy ra sau khi mối quan hệ giữa chính phủ Ấn Độ và tổ chức này trở nên căng thẳng.
 
Cựu Thủ tướng Pakistan Benazir Bhutto may mắn sống sót sau một vụ ám sát vào năm 2007 (một vụ đánh bom làm chết 180 người), nhưng sau đó vẫn phải bỏ mạng trong một vụ ám sát khác. Nguyên nhân của vụ ám sát vẫn chưa rõ ràng. Có giả thuyết rằng các phần tử Hồi giáo cực đoan muốn tiêu diệt bà vì bà qua lại thân thiết với phương Tây; một giả thuyết khác thì cho rằng do Tổng thống Pervez Musharraf muốn triệt tiêu đối thủ. Musharraf sau đó bị cáo buộc có liên quan đến vụ ám sát, nhưng đã phủ nhận mọi trách nhiệm.
 
Tại Israel, Thủ tướng Yitzak Rabin bị ám sát vào năm 1995 bởi một kẻ theo chủ nghĩa Phục quốc Do Thái cực hữu vì ông đang cố gắng lập hòa bình với người Palestine. Vụ ám sát này đã có tác động rất lớn đến cấu trúc chính trị của Trung Đông đương đại, và được một số người đánh giá là một trong những “vụ ám sát thành công nhất trong lịch sử.
 
Một sự thật phũ phàng là ngày nay, các vụ ám sát vẫn rất phổ biến ở Phi Châu, với 185 vụ chỉ trong hai năm 2019 và 2020, chủ yếu nhắm vào các chính trị gia, nhà lãnh đạo và nhà báo; hầu hết đều có động cơ chính trị.
 
Ở Mỹ La-tinh, gần đây, ứng viên tổng thống Fernando Villavicencio đã bị sát hại ở Ecuador, rõ ràng là có “bóng dáng” các băng đảng ma túy phía sau. Ở Brazil, ứng viên tổng thống Jair Bolsonaro bị đâm trong một cuộc biểu tình; vụ tấn công này được cho là đã giúp ông giành chiến thắng trong cuộc bầu cử năm 2018.
 
Phương Tây cũng không tránh khỏi cái bóng của ám sát. Các vụ ám sát vẫn thường xảy ở các nền dân chủ tự do, dù các chính phủ ở đây ổn định hơn. Có nhiều nguyên nhân khác nhau cho những âm mưu ám sát, nhưng trong những năm gần đây, nhiều chính trị gia đã trở thành mục tiêu của các phần tử cực đoan cánh hữu.
 
Ở Nhật Bản, Shinzo Abe bị ám sát vào năm 2022 bởi kẻ có mối thù cá nhân với một nhà thờ và hắn tin rằng Abe ủng hộ nhà thờ. Ở Đức, chính trị gia bảo thủ Walter Lübcke bị sát hại năm 2019 bởi một kẻ theo phe cực hữu phản đối chính sách di cư của ông. Tại Anh, năm 2016, nghị sĩ Jo Cox cũng chết trong tay một kẻ theo phe cực hữu.
 
Đầu năm nay, Thủ tướng Slovakia, Robert Fico, bị trọng thương bởi một tay súng có liên quan tới các nhóm cực hữu. Ngược lại, ở Hà Lan, chính trị gia cực hữu Pim Fortuyn đã bị ám sát bởi một kẻ không đồng tình với cách Fortuyn chỉ trích và đổ lỗi cho người Hồi giáo.
 
Bao giờ thì người ta không còn ám sát nhau?
 
Chừng nào còn có những người cảm thấy việc giết một nhân vật quan trọng có thể giúp họ đạt được sở nguyện của mình, thì các vụ ám sát vẫn sẽ còn tiếp diễn. Các vụ xử tử ngoài vòng pháp luật cũng sẽ xảy ra dài dài nếu được chính phủ, nhà nước mắt nhắm mắt mở bật đèn xanh.
 
Nhưng từ đầu thế kỷ 20, người ta dần nhận ra rằng việc giết một người chẳng thể mang lại thay đổi gì lớn như họ vẫn nghĩ. Muốn thay đổi một hệ thống, cơ cấu, phong trào hay ý thức hệ, cần tới những phương pháp phức tạp hơn chứ không phải chỉ cần dùng bạo lực để giết chết, tiêu diệt là xong.
 
Cung Đô biên dịch 
Nguồn: “Political assassinations are not just an American problem – they have been all too frequent throughout history” được đăng trên trang TheConversation.com.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thuế quan — thứ từng vắng bóng trên mặt báo suốt nhiều thập niên — nay trở lại trung tâm chính sách kinh tế Hoa Kỳ, trong lúc Tối Cao Pháp Viện đang xét tính hợp hiến của các mức thuế toàn cầu do Tổng thống Donald Trump ban hành. Bài viết dưới đây, theo phân tích của Kent Jones, giáo sư kinh tế danh dự Đại học Babson, đăng trên The Conversation ngày 11 tháng 12 năm 2025, nhằm giải thích cặn kẽ thuế quan là gì, ai thực sự gánh chịu, và vì sao vấn đề này đang tác động trực tiếp đến túi tiền và tương lai kinh tế nước Mỹ. Thuế quan, nói gọn, là thuế đánh lên hàng hóa nhập cảng. Khi một công ty Hoa Kỳ nhập hàng từ nước ngoài, Cơ quan Hải quan và Biên phòng Hoa Kỳ sẽ gửi hóa đơn thuế; doanh nghiệp phải nộp đủ thì hàng mới được thông quan. Trên giấy tờ, người trả thuế là nhà nhập cảng. Nhưng trên thực tế, phần lớn chi phí ấy được chuyển thẳng sang người tiêu dùng qua giá bán cao hơn — từ thực phẩm, xe cộ cho đến quà tặng cuối năm.
Vào những ngày cuối tháng Tám của năm 2025, tôi cùng hai đồng nghiệp đã quyết định từ bỏ chức vụ tại Cơ Quan Kiểm Soát và Phòng Bệnh (CDC). Chúng tôi ra đi vì không thể tiếp tục im lặng khi chứng kiến tính liêm chính khoa học ngày một xói mòn, còn cơ sở hạ tầng y tế công cộng của quốc gia cứ dần rệu rã dưới sự lãnh đạo của Robert F. Kennedy Jr., Bộ trưởng Bộ Y tế và Nhân sinh (HHS). Khi đó, chúng tôi đã khẩn thiết kêu gọi Quốc Hội, các tổ chức chuyên ngành và các bên liên quan trong lĩnh vực y tế công cộng hãy can thiệp trước khi xảy ra những thiệt hại không thể cứu vãn. Tôi rời đi với niềm tin mọi thứ rồi sẽ được chấn chỉnh.
Khi nhìn bản đồ thế giới và duyệt xét lịch sử hình thành, chúng ta nhận thấy có rất nhiều điểm tương đồng giữa Canada và Úc Đại Lợi.
Người Việt miền Nam từng trải qua một bài học cay đắng: sau 1975, những lời nói về “thống nhất” và “hàn gắn” không bao giờ đi cùng sự nhìn nhận. Không một lời chính thức nào nhắc đến các trại cải tạo, những cuộc tước đoạt, hay những đời sống bị đảo lộn dưới tay những người nhân danh chiến thắng. Không có sự thật, hòa giải chỉ là chiếc khẩu hiệu rỗng. Câu chuyện nước Mỹ hôm nay, khi chính quyền muốn làm mờ các chứng tích về chế độ nô lệ, cho thấy một điều quen thuộc: không quốc gia nào trưởng thành bằng cách giấu đi phần tối. Sự thật không tự biến mất chỉ vì người ta muốn quên.
Hai mươi năm trước, Thống đốc Jeb Bush ký đạo luật “stand your ground” (đứng vững tại chỗ), được giới ủng hộ xem là một biện pháp chống tội phạm dựa trên “lý lẽ thường tình”. Lời hứa khi ấy: bảo vệ người dân tuân thủ pháp luật khi họ dùng vũ lực để tự vệ. Sau vụ George Zimmerman được tha trong cái chết của Trayvon Martin, đồng bảo trợ dự luật, dân biểu Dennis Baxley, vẫn bảo rằng “trao quyền” cho người dân sẽ giúp chặn bạo lực.
“Di sản, còn có thể mang hình thức phi vật thể của lối nghĩ, lối sống, lối hành động, mà con người miền Nam khi xưa đã được trau dồi, hun đúc qua tinh thần của thể chế, của một nền dân chủ hiến định. Chính con người, chính cộng đồng xã hội mới là trung tâm và cũng là cội nguồn lẫn mục đích của mọi bản hiến pháp.” – Hải Sa, “Ngót 60 năm từ một khế ước nhân quyền dang dở,” trang 56 Cùng với tin tạp chí Luật Khoa vừa được đề cử giải thưởng Tự Do Báo Chí năm 2025 của Tổ chức Phóng viên Không Biên giới, ban chủ trương trong một thư tới độc giả vào cuối tháng 10 đồng thời thông báo việc phát hành ấn bản đặc biệt với chủ đề “70 Năm Việt Nam Cộng Hòa – Chân Dung & Di Sản” gồm 86 trang, với 14 bài vẽ lại hành trình từ ra đời tới bị bức tử của nền dân chủ duy nhất của Việt Nam và di sản của thể chế yểu mệnh này để lại. Bài này nhằm điểm qua nội dung của ấn bản đặc biệt này, và sẽ chú trọng vào một bài đã gợi nơi người viết một suy tư sâu sắc.
Một nhóm sử gia, thủ thư và tình nguyện viên đang gấp rút chạy đua với thời gian – và với chính quyền Trump – để giữ lại những mảnh ký ức của nước Mỹ.Từ hình ảnh người nô lệ bị đánh đập, các trại giam người Mỹ gốc Nhật trong Thế Chiến II, đến những bảng chỉ dẫn về biến đổi khí hậu ở công viên quốc gia, tất cả đều có thể sớm biến mất khỏi tầm mắt công chúng. Trong vài tháng gần đây, hơn một ngàn sáu trăm người – giáo sư, sinh viên, nhà khoa học, thủ thư – đã âm thầm chụp lại từng góc trưng bày, từng bảng giải thích, để lập ra một kho lưu trữ riêng tư. Họ gọi đó là “bản ghi của công dân” – một bộ sưu tập độc lập nhằm bảo tồn những gì đang tồn tại, trước khi bị xoá bỏ bởi lệnh mới của chính quyền.
Hai trăm mười một năm trước, mùa hè năm 1814, quân Anh kéo vào Washington. Trước khi phóng hỏa Bạch Ốc, họ ngồi xuống dùng bữa tại bàn tiệc đã dọn sẵn cho Tổng thống James Madison. Khi bữa ăn kết thúc, lính Anh đốt màn, đốt giường, và tòa nhà bốc cháy suốt đêm. Sáng hôm sau, cơn mưa lớn chỉ còn rửa trôi phần tro tàn của nơi từng là biểu tượng cho nền cộng hòa non trẻ. Tuần này, phần Cánh Đông của Bạch Ốc bị phá sập. Không phải bởi ngoại bang, mà bởi chính quyền tại vị. Và lần này, không ai được báo trước. Người Mỹ chỉ biết chuyện qua những bức ảnh máy xúc cày nát nền nhà, cùng lời xác nhận ngắn ngủi từ các viên chức trong chính phủ.
Hai trăm năm rưỡi sau ngày dựng cờ độc lập, nước Mỹ vẫn chưa thoát khỏi chiếc bóng của bạo lực. Mỗi khi một viên đạn nổ, người ta lại nói: “Đây không phải là nước Mỹ.” Nhưng chính câu nói ấy lại là cách người Mỹ tránh nhìn thẳng vào chính mình. Bài viết của giáo sư Maurizio Valsania (Đại học Torino), đăng trên The Conversation ngày 12 tháng 9, 2025, nhắc lại lịch sử mà nhiều người muốn quên: từ nhựa đường và lông gà đến súng ngắn buổi bình minh — một mạch dài nối liền hai thế kỷ, nơi tự do và bạo lực chảy cùng dòng máu.
Một cuộc thăm dò dư luận của AP-NORC thực hiện vào tháng 9 & 10 cho thấy hầu hết dân Mỹ coi việc chính phủ đóng cửa hiện tại là một vấn đề nghiêm trọng và đổ lỗi cho cả hai Đảng Cộng Hòa, Đảng Dân Chủ và cả Tổng Thống Trump với những tỷ lệ gần như ngang nhau. Cuộc thăm dò cũng cho thấy người Mỹ lo lắng về kinh tế, lạm phát và bảo đảm việc làm. Họ đang giảm những chi tiêu không thiết yếu như quần áo và nhiên liệu. Đa số cho rằng nền kinh tế yếu kém. Chi phí thực phẩm, nhà ở và chăm sóc sức khỏe được coi là những nguồn chính gây khó khăn tài chính.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.