Hôm nay,  

Đặng Toản Và Ẩn Thoại Đêm

8/2/202417:47:00(View: 4191)

( Đọc ẲN THOẠI ĐÊM của ĐẶNG TOẢN, NXB Hoa Kỳ ấn hành, tháng 7/2024)

 

ÂTĐ

 

Thi phẩm “Ấn Thoại đêm” ( ÂTĐ) của nhà thơ Đặng Toản dày 260 trang, gồm 245 bài thơ đủ thể loại, song hầu hết là thơ lục bát, tứ tuyệt, là thi phẩm thứ tư của cây bút quen thuộc với bạn đọc yêu thơ của Hội Văn Bút vùng Houston, Texas.

Đặng Toản sinh năm 1960 tại Nha Trang, quê quán Quảng Nam, hiện là công nhân thợ tiện cho một hãng ống dầu ở Texas, do vậy rất nhiều bài thơ, tác giả ghi “ Viết bên máy Laser CNC...”, như một sự khẳng định, nghề nghiệp và công việc luôn là nguồn cảm hứng cho tứ thơ của Toản...

Suy nghĩ về thơ, Đặng Toản đã viết: “ ... Thơ chấp nhận mọi sự đẽo gọt và không đẽo gọt, từ vi tế đến thô ráp, từ dân gian đến bác học và các thành phần tham gia vào chiếu thơ có mặt phu xe và tể tướng, gã ăn mày và đại phú hộ...” ( Nghĩ về thơ, trang 258). Do đó sẽ càng thú vị hơn, khi ta bắt gặp những hình ảnh thơ, những câu thơ với những ngôn ngữ “nghề nghiệp” song cũng đầy mới lạ và ấn tượng của “gã thợ tiện’ bên những tia laser cắt... ống sắt!

Bài thơ mở đầu thi phẩm ÂTĐ và cũng là tựa đề của bài thơ với thể thơ ngũ ngôn, 11 khổ kéo dài trên 3 trang giấy, là bài thơ thú vị và mới lạ như vậy: “ Ngày ngày nâng ống sắt/ Anh với nghề trôi lăn/ trong cuộc tình cút bắt/ Xin quay về ăn năn”, lấy cuộc tình để ví với nghề “nâng ống sắt, trôi lăn...”, một so sánh lạ và cũng thật ấn tượng, thú vị, khi nhà thơ tiếp tục thủ thỉ: “ Anh cắt tà áo nhớ/ Đo độ dài cách xa/ Em hiện ra rạng rỡ/ Hân hoan cặp mắt ngà.” Bởi vì: “ Em là thiên thần nhỏ/ Anh là kẻ dại khờ/ Thiên thần không nở bỏ/ Kẻ dại khờ bơ vơ”. Để rồi: “ Anh nối sợi thẹn thùng/ Vào chùm tia mắt cuối/ Hoang phế và mông lung/ Trên tay tình đã nguội”. Ôi cái thực tế nao lòng, cho dù thi sĩ có lúc mơ “ Anh ngồi trong vũ trụ/ Với từng chùm sát na/ Thời kinh ngày dẫn dụ/ Đường ra khỏi thiên hà...”, thì cái ống sắt thực tế sau những phút thắng hoa bởi những tia laser thì cũng có lúc... nguội lạnh trên tay, chứ nào phải cuộc tình, dày công thương nhớ? Thi sĩ chính là thế đấy!

Đọc thơ Toản, ừ thì cũng có lúc mộc mạc, thô ráp, có khi cũng dàn trải, “thương vay khóc mướn” như “ Ngài Putin không kềm chế được rồi!...” hay như “ Thằng Út xỉn chỉ sau vài nốt nhạc...” (Bên bàn rượu tất niên nơi xóm vắng, trang 12), đó cũng là cái thường tình của “Vò rượu mở bởi say mèm quên đậy/ Nhạc Xuân mềm như hoa cỏ quanh đây!” Song cái hay, cái mới thì vẫn luôn bàng bạc trong từng câu “gọt dũa”: “Mùa vừa khóa cảnh cửa vườn/ Ngăn từ khoảng hạ, thu trườn sang đông/ Anh vừa thả xuống dòng sông/ Một câu thơ biết rằng không khứ hồi” ( Vừa, trang 79), Hoặc như “ Nắng vừa đứng dựa bên hè/ Nhìn trăng sao rụng đầy xe bốn mùa/ Đôi khi gió bị bỏ bùa/ Ngây trưa, chẳng nhín tiến mua chỗ chiều!” ( trang 87), cái lạ và cái phi lý, dường như trộn lẫn, người đọc thì cứ bâng khuâng bên hình ảnh “nắng đứng, ngắm trăng sao...” mà vẫn đồng cảm với cái xúc cảm của tác giả...

Sự lãng mạn, hơi thở cuộc sống và thơ tràn ngập: “Cúc cười vàng nụ thu lam/ Lựu cười đỏ hạ nụ hàm tiếu khao /Sen hồng thắm nụ ca dao/ Mai cười ửng biếc, thì thào lập xuân” ( Hoa cười, trang 102), và đây nữa: “Anh ngồi trên tốc độ lăn/ Lặng im nhìn bánh xe ăn con đường/ Nắng và cây cối phi thường/ Lâm râm niệm chú, ngàn phương gió về.” ( Trên freeway, trang 103). Người đọc bắt gặp sự “Lập ngôn”: “Áo đã chèn đêm vào nét gấp/ Nụ hôn còn ấm giữa chân ngày/ Môi xa cười gợi chiều áp thấp/ Thơ còn thao thức, lập ngôn say!” ( trang 155)

Một vườn thơ, một vườn bông, lắm nụ hàm tiếu, nhiều nụ mãn khai. Có một điều hình như nhà thơ muốn “để dành” ngắm tất cả, quên đi sự chọn lựa. Phải chăng đó cũng là... cái điểm yếu của người vì quá... say mà chấp nhận đủ mọi điều thương, nhớ.

Và người đọc thì vẫn thấy thích, và lạ trước những câu thơ: “ Anh vẽ điện tâm đồ ngọn khói/ Thăm dò huyết áp của làn sương/ như thể mùa xuân vừa chín bói/ Quan hà cũng kẹp tóc soi gương...” Mong tác giả luôn là: “ Mai về anh đổ thêm hương nhớ/ chăm bón bấu thơ đã sắp cằn/ Em đứng thật xa nhìn bỡ ngỡ/ Con chữ gầy cũng biết trôi lăn!” ( Con chữ trôi lăn, trang 251)

 

Katy, August, 01/2024

TRẦN HOÀNG VY

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Trong trang đầu tiên của Thuyền, tiểu thuyết, tác giả Nguyễn Đức Tùng viết:“Cả Sài Gòn, cả nước, xem bói. Thời trước, người ta xem để hỏi ngày lành tháng tốt, tiền tài, hạnh phúc lứa đôi, nhưng năm ấy, mọi người hỏi: có đi được không?” Đi hay ở, đó là vấn đề. Chả là vào thời đó, “Nếu cái cột đèn biết đi thì cũng phải đi.” Nhận xét đơn giản này, không rõ do ai thốt lên, đã lập tức trở thành phát ngôn thời danh, mô tả khá hình tượng cho một chương bi thảm trong lịch sử dân tộc, nối tiếp ngay sau một chương bi thảm khác là chiến tranh. Chương đó bắt đầu từ trong bối cảnh “Ngày tôi ngoài hai mươi tuổi, đó là những năm tháng u ám nhất của đời người, đó là những ngày yêu đương tràn ngập, mặt trời lên mỗi sáng, chiếu rọi mặt đất. Nhìn đâu cũng thấy tương lai. Đó là những ngày buồn bã, đói, thất vọng. Chúng tôi có tất cả, chúng tôi không có gì. Đó là những ngày kỳ lạ khi chiến tranh chấm dứt mà không chấm dứt, hòa bình lo âu.”
New Book Release: This book is a translation of a collection of personal, literary, and journalistic vignettes of Vietnamese individuals who have made notable contributions to literature, art, and science. It is a rich source of information on the social, cultural, and political history of South Vietnam, as well as the individual careers of its human subjects...
Làm thơ là một hành trình, với nhiều người, có khi rất là tình cờ bất chợt như làn gió mát buổi sớm chúng ta gặp mà không hề mong đợi. Thơ của chị Lê Phương Châu có phong cách như thế, khi thơ đọc như là những dòng chữ tình cờ, nơi đây chị có vẻ như không cố ý tìm chữ, tất cả chỉ là tự nhiên như ca dao. Trên từng dòng chữ, chị hiện ra như các hơi thở của tỉnh thức, để tự quán sát đời mình tan rã từng ngày, từng giờ, từng khoảnh khắc trong dòng sông vô thường. Và từ đó, thơ của chị khởi dậy trên các trang giấy.
Trong những năm gần đây, các thư viện công tại Hoa Kỳ – vốn từng là không gian yên tĩnh dành cho học tập và tra cứu – đã trở thành điểm nóng trong các cuộc tranh chấp văn hóa. Hàng ngàn cuốn sách bị yêu cầu cấm lưu hành, không phải bởi độc giả trực tiếp, mà từ các nhóm chính trị cánh hữu sử dụng mạng xã hội để vận động phản đối hàng loạt. Riêng năm học 2023–2024, PEN America ghi nhận tới 10.046 lượt cấm sách ở các trường công, ảnh hưởng tới 4.231 tựa sách và 2.662 tác giả; trong đó Florida và Iowa chiếm lần lượt 4.561 và 3.671 lượt cấm trong năm học. Gần một nửa trong số đó là sách viết bởi các tác giả LGBTQIA+ hoặc thuộc các cộng đồng chủng tộc thiểu số – những tiếng nói vốn đã bị thiệt thòi trong ngành xuất bản, nay tiếp tục bị đẩy ra ngoài bằng nhãn “không phù hợp.”
Cũng tâm thái ấy, tôi có được khi đọc Phòng Triển Lãm Mùa Đông của nhà văn Đặng Thơ Thơ, và sau đó là xoay sở cho lọt vào những con chữ mang đầy ý nghĩa bức phá hiện thực...
Nguyễn Hữu Liêm là một người đa dạng, không chỉ trong nghề nghiệp mưu sinh, mà cả trong những lĩnh vực cầm bút, lý luận. Ông là một người gây tranh cãi trong những nhận định về cộng đồng, và cả trong những bài viết về rất nhiều đề tài, như văn hoa, triết học, tôn giáo, chính trị. Dĩ nhiên, sôi nổi nhất là lĩnh vực chính trị. Nguyễn Hữu Liêm mưu sinh với nghề Luật sư, giảng dạy Triết. Những bài viết của ông bất kể gây tranh luận thế nào trong cộng đồng, vẫn là những đề tài cần được cộng đồng suy nghĩ nghiêm túc. Do vậy, từ một bàn viết lặng lẽ ở San Jose, Nguyễn Hữu Liêm trở thành người khơi dậy những cuộc tranh luận không chỉ ở hải ngoại, mà còn cả trong Việt Nam.
Đặng Thơ Thơ cùng thế hệ với ông bác, em ruột mẹ tôi, sống trong thời Việt Nam Cộng hòa và cũng như ông bác tôi, Thơ Thơ xa xứ cùng gia đình, người bác theo ngành y còn chị ngành giáo dục, viết văn, sáng lập trang Da Màu như cách để giữ gìn bản sắc và ngôn ngữ Việt. Xa quê mới nhớ nhà, rời nhau mới ngẩn ngơ căn nhà cắt rốn, sợ mất tiếng mất giọng, ngôn ngữ bay tro nên việc người Việt tha hương lập ra các trang Văn Hải Ngoại là cách đại đoàn kết khỏi cảnh nhớ nhà, đồng thời đấy cũng là sân chơi, thư viện lưu trữ bản thảo, để người trẻ muốn tìm tòi giai đoạn 20 năm miền Nam, muốn thử sức mà không cần phải trình bày thành tích đăng báo, in sách chung sách riêng đều có thể liên lạc.
Không ai ngờ nhà thơ này làm được các bài thơ kể chuyện về các Thiền sư Việt Nam trong thể thơ Đường luật, y hệt như khai mở lại một mạch nguồn thi ca sinh động. Những bài thơ của thầy, tinh luyện từng chữ, dịu dàng mang hơi thở Thiền Tông Việt Nam. Tôi đọc và kinh ngạc, như gặp lại một tri kỷ những năm rất xưa cũ, nhưng với một chân trời thi ca hoàn toàn mới. Nơi đó, riêng một mình Thầy Thích Chúc Hiền bước đi đơn độc, trong văn phong thanh thản, giữa những như dường gian nan trong từng chữ, từng ý đối, từng vần trau chuốt khó gieo, và trong từng âm vang Thiền ngữ. Tôi đọc và cảm nhận từng trang thơ đầy những tràn ngập hạnh phúc, hẳn nhiên là cho cả thi sĩ Thích Chúc Hiền và cho cả những độc giả khó tính như tôi. Từ thầy, tôi nhận ra rằng thơ Đường luật không hề cũ, chỉ là vì mình đã tránh né một lối đi rất khó khăn của thi ca.
THUYỀN là cuốn tiểu thuyết của nhà thơ Nguyễn Đức Tùng. Tác phẩm thuật lại chuyến vượt biên bằng đường biển của một nhóm người khi phong trào vượt biên trong nước lên cao, vào khoảng giữa hai thập niên 70s và 80s. Vì là tiểu thuyết nên cuốn sách thoát xác ra khỏi dạng hồi ký (mặc dù tự sự của nó bám sát sự thật và những điều có thể xem như sự thật) và nhất là nhờ được viết với bút pháp “dòng ý thức” nên nó đồng thời bật mở những suy nghiệm về lịch sử, chiến tranh, quê hương, tình yêu, sự sống, sự chết, sự tàn bạo, lòng nhân đạo, ký ức, lòng khao khát được sống, dòng chảy thời gian, cái nhẹ của nhân sinh, và nhiều thứ khác...
Tôi kinh ngạc khi thấy mình có thể sống trong rất nhiều thế giới trong một ngày. Bật máy vi tính lên, tìm các bản tin thế giới và quê nhà qua Google, chọn tin và dịch. Từ những xúc động có khi rơi nước mắt khi đọc tin về nỗi đau đớn của những người đang sống dưới mưa bom như Palestine, Ukraine, cho tới nỗi lo lắng khi thấy các bản tin về Biển Đông và đói kém ở quê nhà, cho tới những sân si trong thế giới quyền lực ở Hoa Kỳ... Thời gian nghỉ tay, đọc những dòng thơ nơi này hay nơi kia, từ khắp thế giới, là hạnh phúc đời thường của tôi. Trong đó, tôi thường theo dõi những dòng chữ của nhà thơ Thiện Trí, người cũng là một thiền sư đang dạy Thiền thực nghiệm ở Nam California. Có khi tôi mở bản sách giấy ra xem, và có khi vào Facebook tìm đọc "Monk Thiện Trí."
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.