Hôm nay,  

Ngày Khai Trường

06/08/202410:21:00(Xem: 2067)

Dao Nhu

 

Trong cái nắng của trời cuối tháng Tám, các con em ở Mỹ lại bắt đầu ngày tựu trường. Nhìn cha mẹ dẫn con nhỏ mỗi buổi sáng đón xe bus màu vàng cam để đi đến trường, lòng tôi lại nao nao nhớ lại ngày khai giảng hằng năm ở quê nhà.

Bây giờ là trời tháng Chín. Ôi "chín mươi ngày nhảy nhót ở miền quê" qua vội quá. "con đường làng huyết phượng nở thành bông"(1) cũng tàn lụi trong sự lãng quên của đám học trò. Tiếng ve sầu râm ran gọi mùa hè cũng tắt lịm tự bao giờ. Các cô cậu hoc trò ở quê tôi lại tấp tểnh sách vở lên đường nhập học.

Có cậu bé năm ấy, được mẹ âu yếm dẫn đi đến trường trong buổi nhập học đầu tiên. Mỗi khi nhớ lại buổi nhập học đầu tiên đi cùng mẹ, tôi nhớ bài viết chan chứa hoài niệm về mẹ và những mùa tựu trường của nhà văn Thanh Tịnh. Tôi say mê đọc đi đọc lại nhiều lần, gần như tôi đã thuộc lòng bài viết ấy: "Hàng năm cứ vào cuối Thu lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường...Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi sáng đầy sương Thu và đầy gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi, dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp. Con đường này tôi dẫ đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên tôi thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn. Hôm nay tôi đi học..."

Hà Nội có mùa Thu, Ninh Thuận quê tôi ở đó chỉ có hai mùa nắng gió. Buổi sáng mai hôm ấy mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi dẫn tôi đi qua con đường làng Xóm Động, rồi đến con đường cái quan tráng nhựa. Mẹ tôi nắm lấy tay tôi dẫn tôi đi qua cầu "Ông Cọp", rồi cầu "Nước Đá" và đến tận cửa trường tiểu học Phan Rang. Tôi cúi đầu đi qua cổng trường có tấm biển lớn có hàng chữ Tây: "Indochine Francais- École Primaire De Phanrang"...Giữa sân trường có cột cờ với lá cờ ba màu của Pháp treo tận chót vót. Trường của tôi hình như vừa quét nước vôi và có cửa kiến, tôi thoáng nghe mùi cửa sổ mới sơn.

Gặp được thầy giáo Trương Thành Khuê ở cửa trường, tôi nép mình bên mẹ và nắm chặt chéo áo dài của mẹ. Mẹ tôi trịnh trọng bảo tôi "cúi đầu chào thầy đi con". Thầy Khuê đưa tay xóa tóc tôi. Sau khi thưa gửi vài lời ân cần với thầy, mẹ tôi cúi đầu chào thầy và bà ra về. Tôi có cảm tưởng lần đầu tiên tôi xa mẹ. lòng tôi bâng khuâng lạ thường gần như muốn khóc.



Thầy Trương Thành Khuê dẫn tôi đến lớp học của tôi  Lớp học của tôi có tấm bản đen rất lớn, có hàng chữ Tây COURS ENFANTIN- Lớp 1- còn gọi là lớp Đồng Ấu. Thầy dạy tôi ở lớp 1 là thầy Trần Thế Sô, người làng Mỹ Đức, cũng là bạn thầy giáo với cha tôi...

Sau đó vài năm, cả nước vang vang lời kêu gọi "Toàn Quốc Kháng Chiến". Thời gian cứ xuôi dòng chảy, thấm thoát chúng tôi vừa đi qua sáu mùa tựu trường (2).. Chúng tôi tốt nghiệp Primaire vào tháng 6-năm 1951. Các bạn tôi có người đã mười bảy, mười tám, mười chín, hay lớn hơn nữa (3). Phần nhiều sau khi đậu Primaire, các anh ấy thoát ly gia đình theo Viêt Minh kháng chiến chống Pháp. Trong đó có các anh từng chung sách chung đèn với tôi, Nguyễn Châu Kiên, Trần Nhật Đoàn, Phan Văn Diệm... Không đầy hai năm sau, một số các anh ấy đã hy sinh tại mật khu Cà Đú.  Khi được hung tin ấy, tôi ngồi bên thềm cửa tay bưng mặt khóc rưng rưng. Mẹ tôi lại âu yếm vuốt tóc tôi: "các anh ấy lớn tuổi hơn con nhiều...Con đừng bắt chước các anh ấy để rồi mẹ phải sống những ngày không có con, hiu quạnh một mình..." Khi nói câu nói đó mẹ tôi đâu có ngờ bốn mươi bảy năm sau, năm 1998, mẹ tôi qua đời tại quê nhà trong lúc tôi sống lưu vong ở xứ người. Chắc chắn trong phút lâm chung, mẹ tôi thế nào cũng nhớ đến tôi, nhất là những phút giây âu yếm mẹ nắm lấy tay con dẫn con đi đến trường trong ngày tựu trường đầu tiên

Bây giờ khung trời cũ, màu đất cũ, ngôi trường cũ, còn nguyên vẹn đó nhưng mẹ tôi không còn nữa, thầy Trương Thành Khuê, Thầy Trần Thế Sô không còn nữa  cũng không còn nữa. Tiếng trống của ngày khai trường năm xưa còn vọng mãi trong tôi cho đến bao giờ...Càng về già, càng lớn tuổi, tôi nhớ mãi ngày khai trường đầu tiên như một hoài niệm về mẹ, về thầy, về quê cha đất tổ cách xa ngàn vạn dậm./.


Đào Như


Chú Thích

(1) Trich tử bai thơ Nghỉ Hè của nhà thơ Xuân Tâm- 1941

(2) Trước năm 1950, Chính phủ Toàn Quyên Đông Dương Pháp chủ trương chương trình Tiểu học gôm có 6 lớp: Cours Enfantin- Préparatoire- Élémentaire- Cours Moyen Première Année- Cours Moyen Deuxième Année và Cours Supérieure.

(3) Thuở chúng tôi trẻ con chỉ có quyền đi học sớm nhất là 9 tuổi, có người 12,13 tuổi mời bắt đầu học Cours Enfantin (tức là lớp một hay còn gọi là lớp Đồng Ấu)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Biết bao nhiêu bài viết về Mẹ, công ơn sinh thành, hy sinh của người Mẹ vào ngày lễ Mẹ, nhưng hôm nay là ngày Father’s Day, ngày của CHA, tôi tìm mãi chỉ được một vài bài đếm trên đầu ngón tay thôi. Tại sao vậy?
Hôm nay giống như một ngày tựu trường. Đơn giản, vắng một thời gian không ngồi ở lớp học, nay trở lại, thế là tựu trường. Ngày còn bé, mỗi lần nghỉ hè xong, lên lớp mới, trong lòng vừa hồi hộp vừa vui sướng. Có bao nhiêu chuyện để dành chờ gặp bạn là kể tíu tít. Nhưng bên cạnh đó là nỗi lo khi sắp gặp các thầy cô mới… Mỗi năm đều có ngày tựu trường như vậy, nói chung là khá giống nhau, trong đời học sinh. Nhưng cái ngày tựu trường này thật quá khác. Người ta nhìn nhau không dám cười, không dám chào hỏi. Sự e dè này, dường như mỗi người đã được tập luyện qua một năm. Một năm “học chính trị” trong cái gọi là hội trường mà tiền thân là cái rạp hát.
Cái tên Michelin không xa lạ gì với chúng ta. Vỏ lốp chiếc xe tôi đang dùng cũng mang tên Michelin. Sao hai thứ chẳng có liên quan chi lại trùng tên. Nếu tôi nói chúng tuy hai mà một chắc mọi người sẽ ngây người tưởng tôi… phiếm.
Phi là một người bạn đạt được những điều trong đời mà biết bao người không có. Là một tấm gương sống sao cho ra sống để chết đi không có gì hối tiếc. Là một niềm hy vọng cho sự tử tế vốn ngày càng trở nên xa xỉ ở nước Mỹ mà tôi đang tiếp tục sống.
Có một lần đó thầy kể lại chuyện rằng, thầy có một phật tử chăm chỉ tu học, đã hơn 10 năm, theo thầy đi khắp nơi, qua nhiều đạo tràng, chuyên tu chuyên nghe rất thành kính. Nhưng có một lần đó phật tử đứng gần thầy, nghe thầy giảng về phát bồ đề tâm, sau thầy có đặt một vài câu hỏi kiểm tra coi thính chúng hiểu bài tới đâu? Cô vội xua xua tay, “bạch thầy, những điều thầy giảng, con hiểu hết, con hiểu hết mà. Con nhớ nhập tâm. Nhưng đừng, thầy đừng có hỏi, bị là con không biết trả lời làm sao đâu.” Có lẽ là cô hiểu ý mà cô chưa sẵn sàng hệ thống sắp xếp thứ tự lại các ý tưởng.
Ở xứ ấy, người ta ngủ đến trưa mới dậy. Chàng nhớ thế khi nghĩ về mùa xuân, mùa hạ, mùa thu khi còn bé, mỗi lần nghĩ thế, đều lấy làm ngạc nhiên, và lấy làm ngạc nhiên về sự ngạc nhiên ấy. Thế mà giữa một thành phố châu Âu, chàng lại gặp chúng. Trên nền tường trắng và mặt biển xanh, giữa những màu xanh và trắng, chỉ hai màu ấy, đôi khi xanh và đỏ, chàng gặp lại chúng, hồ hởi, tưng bừng, nó và chàng như hai thằng bạn thời mặc quần xà lỏn nay gặp nhau
Lơ đảng nhìn mây trời và đèn đường, tôi từ tốn chuyển xe sang tuyến trái để cua. Cha tôi thường nói, “Con phải tập bỏ tính lơ đểnh, nếu không, sẽ có ngày gặp phiền phức.” Nhưng lơ đểnh là nơi nghệ sĩ lang thang, ngẫu hứng tìm thấy những sáng tạo không ngờ. Chợt thoáng trong hộp kính nhìn lui, thấy chiếc xe đen nhỏ bắn lên với tốc độ nguy hiểm, tôi chuyển xe về lại bên phải, sau gáy dựng lên theo tiếng rít bánh xe thắng gấp chà xát mặt đường, trong kính chiếu hậu, một chiếc xe hạng trung màu xám đang chao đảo, trơn trợt, trờ tới, chết rồi, một áp lực kinh khiếp đập vào tâm trí trống rỗng, chỉ còn phản xạ tự động hiện diện. Chợt tiếng cha tôi vang lên: “đạp ga đi luôn.” Chân nhấn xuống, chiếc xe lồng lên, chồm tới như con cọp phóng chụp mồi. Giữa mơ hồ mất kiểm soát, tử sinh tích tắc, tôi thoáng nhận ra trước mặt là thành cây cầu bắt qua sông.
Danh đi làm lúc 5 giờ sáng, ra về lúc 2 giờ trưa, từ sở làm đến đây khoảng 10 phút đường phi thuyền bay. Giờ này vắng khách. Những lúc khác, buôn bán khá bận rộn. Áo quần lót ở đây khắn khít thời trang, từ đồ ngủ may bằng vải lụa trong suốt, nhìn xuyên qua, cho đến hàng bằng kim loại nhẹ, mặc lên giống chiến sĩ thời xưa mang áo giáp nhưng chỉ lên giường. Hầu hết khách hàng đến đây vì Emily và Christopher. Người bàn hàng độc đáo. Họ đẹp, lịch sự, làm việc nhanh nhẹn, không lầm lỗi. Cả hai có trí nhớ phi thường. Không bao giờ quên tên khách. Nhớ tất cả món hàng của mỗi người đã mua. Nhớ luôn ngày sinh nhật và sở thích riêng. Ngoài ra, họ có thể trò chuyện với khách về mọi lãnh vực từ triết lý đến khoa học, từ chính trị đến luật pháp, từ du lịch đến nấu ăn… Khách hàng vô cùng hài lòng
Sau hơn ba mươi năm gắn bó với cuộc sống ở Mỹ, ông Hải và bà Lan quyết định về hưu và bắt đầu một chương mới của cuộc đời. Quyết định này, mặc dù bất ngờ với những người xung quanh, lại xuất phát từ một ước mơ giản dị-sống những ngày cuối đời an nhàn tại quê hương. Hai ông bà đã dành dụm được một khoản lương hưu kha khá, cộng thêm số tiền đầu tư từ kế hoạch lương hưu 401k, đủ để họ cảm thấy có thể an tâm sống thoải mái ở Việt Nam.
Mẹ chị vừa bước qua tuổi 90, cụ đã bắt đầu lẫn, không tự săn sóc mình và không dùng máy móc được nữa. Bố chị mới mất cách đây hai năm và Mẹ chị xuống tinh thần rất nhanh sau khi Bố mất. Bắt đầu là buồn bã, bỏ ăn, thiếu ngủ, sau đi tới trầm cảm. Chị đi làm bán thời gian, giờ còn lại cả ngày chạy xe ngoài đường đưa đón mấy đứa nhỏ, hết trường lớp thì sinh hoạt sau giờ học. Chị không thể luôn ở bên Mẹ. Chị tìm được nhà già cho Mẹ rất gần trường học của con, lại gần nhà nữa, nên ngày nào cũng ghé Mẹ được, Mẹ chị chỉ cần trông thấy chị là cụ yên lòng.
Má ơi! Thế giới vô thường, thay đổi và biến hoại trong từng phút giây nhưng lòng con thương má thì không biến hoại, không thay đổi, không suy hao. Nguyện cầu ngày đêm cho má, hướng phước lành đến cho má. Cầu chư Phật, chư Bồ Tát, chư hiền thánh tăng ba đời mười phương gia hộ má vượt qua đau bệnh để sống an lạc trong những ngày tháng tuổi già bóng xế.
Truyện đầu tiên kể nơi đây là kể về một tiền kiếp của Đức Phật Thích Ca. Khi đó, ngài được gọi là một vị Bồ Tát. Ngày xưa rất là xưa, có hai người thợ săn, là hai vị thủ lĩnh của hai ngôi làng gần nhau. Hai vị trưởng làng đã lập một giao ước rằng nếu con của họ tình cờ khác giới tính, họ sẽ sắp xếp cho hai đứa con này kết hôn với nhau. Đó là một thời phần lớn hôn nhân là do sắp xếp của ba mẹ. Một vị trưởng làng có một cậu con trai được đặt tên là Dukūlakumāra, vì cậu bé được sinh ra trong một tấm vải bọc đẹp; vị trưởng làng kia có một cô con gái tên là Pārikā, vì cô bé được sinh ra ở bên kia con sông. Khi chàng trai và cô gái lớn lên, cha mẹ hai bên đã kết hôn cho hai người con này. Tuy nhiên, chàng trai Dukūlakumāra và cô gái Pārikā đã có nhiều kiếp tu, cùng giữ hạnh trong sạch, cho nên cô dâu và chú rể cùng cam kết bí mật với nhau rằng hai người sẽ ở chung nhà như vợ chồng, sẽ yêu thương nhau như vợ chồng nhưng sẽ không làm mất hạnh trong sạch của nhau.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.