Hôm nay,  

Nỗi lòng người ở lại

09/08/202400:00:00(Xem: 3464)
 
DP-Di-Cu-1954-1-1920x1266
Hình minh họa : Gia đình ông Lâm Quang ở miền Bắc trước khi di cư. (Hình: Từ album gia đình Lâm Quang)
 
«Mai không đi  nữa đâu em,
Mộng treo đầu gió môi mềm nhớ nhung
Áo phơi nửa giấc đông phong
Nửa buồn đi nửa thương đời xót xa.»
 
Tháng 7 năm 1954, hiệp định Genève chia đôi đất nước Việt Nam, người Pháp thất bại ở mặt trận Điện Biên Phủ, trả lại chủ quyền miền Bắc cho việt cộng. Việt Minh kéo từ mạn ngược và khắp nơi chúng đã ẩn náu về tiếp thu thủ đô Hà Nội và sau đó, toàn thể các tỉnh thành phía Bắc cho vào tới vĩ tuyến 17. Chúng ta mất một nửa giang sơn. Pháp có 80 ngày chuyển giao Hà Nội, 100 ngày giao Hải Dương, 300 ngày trả Hải Phòng, rồi chấm dứt. Việt cộng nằm vùng trong miền Nam cũng tự do ra Bắc tập kết, dù rất ít, nhưng làn sóng người miền Bắc di cư vào Nam thì đông nườm nượp… như nước vỡ bờ, họ chạy trốn, họ sợ cộng sản, họ sợ cái chế độ tam vô đang rượt đuổi sau lưng. Họ ra đi lánh nạn, đa phần phải bỏ lại gia sãn của cải, mồ mả cha ông… họ ra đi nhanh, mau lẹ nhất là các thành phố Hà Nội Hải Phòng, các xứ họ đạo công giáo Bùi Chu, Phát Diệm… có người vội vã đến chỉ ôm theo một tấm ảnh đức mẹ Maria… họ rủ nhau cứ xuống Hải Phòng là có tàu há mồm, há mồm chờ sẵn, chờ họ lên tàu và chở họ vô miền Nam.
 
Họ bỏ lại miền Bắc hơi ngơ ngác sau chiến tranh. Sau 100 năm bị giặc tây độ hộ, bỏ lại không chỉ vật chất mà rất nhiều kỷ niệm… nặng trong «nỗi lòng người đi».
 
Nhưng, người ở lại miền Bắc, mỗi người một hoàn cảnh riêng tư, có người có nhận xét cá biệt của họ, cho là dân đi Nam vì chung đỉnh, muốn hưởng lợi lạc gì đó thêm hai năm nữa. Họ cả tin là sau hai năm, sẽ có tổng tuyểncử, đâu lại về đó thì đi Nam làm chi cho mất công?
 
Có người đi Nam bộ nhờ xin được vé máy bay miễn phí, đi xem cho biết rồi lại về. Cũng có người vội vội đi vì sợ gặp cán bộ bộ đội người nhà, lôi kéo dụ dỗ, ở lại… sau hối tiếc, mà rất nhiều người tiếc sau này, tiếc vì mất tự do mất tất cả.
 
Tình cảnh xã hội Việt Nam sau ngày chia cắt đất nước bởi hiệp định Genève 1954, xã hội rối ren như tơ vò, nhiều gia đình cãi lộn vì đi hay ở, nhiều cặp trai gái lỡ hẹn hò, nhiều con cái bỏ cha bỏ mẹ ra đi một mình, gia đình, xã hội, đất nước đúng cảnh dầu sôi lửa bỏng, nát tan…
 
Ngày đó, có các chiến dịch opération passage to freedom = đường đến tự do, do phái đoàn Pháp và Mỹ trợ giúp. Ai muốn di cư cứ đi vào Nam bộ, ai muốn tập kết cứ ra Hà Nội. Ở Hà Nội, cứ đến ga Phạm Xá, nếu ai nói được vài câu tiếng Pháp, đồng ý, hiểu ra, là được lên máy bay hãng Aigle Azur đưa vào Sài Gòn ngay sau đó.
 
Chỉ ít ngày sau, ở các nơi xa Hà Nội Hải Phòng, Việt Minh mới tổ chức kêu gọi người dân ở lại, đừng vô Nam. Có nơi bị cấm đoán, canh phòng, bắt giữ rất gay gắt, bất kể lệnh của ủy hội quốc tế.
 
Chúng tôi, gia đình chỉ vỏn vẹn có hai cha con, cha tôi đang làm việc cho nhà binh Pháp và từ Hải Phòng, cha tôi quyết chí theo sở.
 
Ông nội tôi từ quê Thái Bình, bị CS bắt ra Hải Phòng khuyên dụ cha tôi về làng. Cha tôi đâu chịu nghe. Ông nội nổi trận lôi đình mắng chửi thậm tệ, ông cầm bàn tay tôi, xòe ra, ông nhổ một miếng nước bọt trong bàn tay nhỏ bé rồi khóc nức nở… như là làm một dấu hiệu của từ đây là tử biệt sinh ly.
 
Tôi ngồi đó, bó gối, ngồi khóc. Cha tôi im lặng, cứ cố gắng gói ghém ràng cột một chút hành lý sau cùng.
 
Gian nhà bên, là gian ở của cô Vân, em ruột cha tôi. Cô Vân tôi cũng đang vừa khóc vừa sửa soạn valise để trở lên Hà Nội một lần sau cùng, cô nói vậy, là cô lên đó một lần cuối rồi mới trở xuống Hải Phòng để đi Nam bộ cô vừa xếp đồ, vừa khóc lặng lẽ, gọi là khóc lặng lẽ, chớ tôi dòm thấy nước mắt cô rơi lã chã xuống mớ áo quần đang thu dọn, cô cứ khóc cả ngày, khóc thầm mà nước mắt nhạt nhòa… vì có lẽ cô sợ cha và anh lại dòm thấy, nghe thấy, rồi to tiếng lớn giọng quát tháo nhau. Hình như, ở mấy nhà hàng xóm, họ cũng ồn ào đang cãi lộn.
 
Hôm trước có lần cô nói thầm với tôi là, bằng cách nào cô cũng phải lên lại Hà Nội một lần trước khi cùng chồng là chú An và bé Cường, 2 tuổi, di cư vô Nam. Cô dứt khoác vô Nam bộ vì cô nói việt minh nó ghê gớm lắm, sống với nó không nổi đâu, nhưng cô phải về Hà Nội thăm hai cô con gái riêng của cô là Bé và Tí chẳng tội nghiệp trước khi đi xa… Bé và Tí là con riêng của cô với người chồng trước là chú Bình, chú Bình đi bộ đội cụ Hồ từ năm 1945-1950 chưa về… cô cũng bảo là cháu đừng lo chú An phiền, vì chú An có cho cô 3000 đồng tiền Đông Dương đặng lo mua sắm đồ cho hai đứa bé đủ dùng trong hai năm trời xa cách.
Những chuyện đó, cô Vân có ai để kể lể đâu, thành ra đôi lúc cô cần nói với tôi, luôn tiện nhờ người tôi, đặng cô lấy số đo, may áo quần cho hai con gái, và lần nào thì cũng không quên may luôn cho tôi cùng mẫu vải. Kỳ này cô may hai valises đầy chặt áo quần. Hình như cô đã nghe phong thanh, như có người nhắn với cô là ngày giải phóng tiếp quản thủ đô ngày 10-10 chú Bình sẽ về Hà Nội… cô Vân có lúc làm việc luôn tay, có lúc đứng dựa vô vách nhà y thân một cây chuối khô! Phiền thiệt, là cô có hai ông chồng mà như là cô cũng yêu cả hai người. Cô tôi là một người đàn bà lạ lùng như vợ chồng ông bà Táo công giữ bếp.
 
Quả có thế, cô đã từng có lần tâm sự rằng:
 
…Khi ấy cô còn rất trẻ, năm 1948 sang đầu năm 1949, cô trốn nhà, bỏ thành phố, đi theo tự vệ thành, rút lui lên miền xa, cố thủ kháng chiến ở xa Hà Nội lắm, bọn của cô toàn người trẻ, gồm có các cô Hiếu, cô Minh, chú Bình, chú An và Vân rủ nhau theo tiếng gọi thanh niên đi cứu quốc, cô lý luận họ không độc ác, không háo sát, không phải là răng đen mã tấu… mà họ là một bầy tiểu tư sản thành thị đi theo lý tưởng tự do, họ lịch thiệp và văn minh, sẵn sàng nghỉ học ngang đi theo tiếng gọi của quê hương đang cần. Họ rất hãnh diện dốc lòng đem tuổi thanh niên giúp đồng bào, cùng đồng chí đánh đuổi giặc Pháp xâm lăng.
 
Họ ở những vùng xa xôi như Đồng Năm, Yên Bái, Phủ Lạng Thương. Họ cũng được học tác chiến và tâm lý chiến, họ đi về giao lưu trong vùng tự do, có lúc lẩn quẩn công tác buôn bán trong các vùng tề. Họ đồng cam cộng khổ sống xen kẽ với tầng lớp dân chúng nghèo và luôn luôn phải di tản vì bom đạn. Tuy nhiên thỉnh thoảng họ được vui vẻ tụ họp bên nhau ca hát dưới đêm trăng sáng, vui bên nhau và quên cả ngủ, quên cả nhớ gia đình dưới miền xuôi.
 
Nhưng rồi một thời gian qua, đảng cộng sản Đông Dương ra đời, nhóm người trẻ yêu nước trong sáng, cảm thấy bị Việt Minh lợi dụng đi sai lý tưởng, họ lác đác đã bỏ về các thành phố vùng tề, vùng quốc gia kiểm soát. Cô Vân tôi vẫn ở lại các vùng giải phóng của V.M tới năm 1952 cũng nơi nguy hiểm đó, cô đã yêu chú Bình, chú là một sinh viên kiến trúc sư Hà Nội, ra đi ngay từ ngày thủ đô kháng chiến và bỏ ngỏ. Ở hậu phương xa đó, họ như là vợ chồng và cô chú đã có hai em gái, mỗi lần sanh nở, cô và chú mang các em bé về Hà Nội đã có bà thân của chú chăm nuôi dùm. Chợt tới khi tình hình ở vùng hoạt hoạt động đó nguy ngập, quân đội Pháp càn quét mở mặt trận khắp nơi. Thấy khó sống và làm việc, chú Bình khuyên vợ tìm cách trà trộn vào những người đi buôn hàng chuyến đi và đi lần lần về Hà Nội với hai con.
 
Năm sau thì chú An là một đồng chí và là bạn thân của chú Bình, được lệnh trên quay về Hà Nội, làm cán bộ y tế bí mật hoạt động nội thành, vì chú An có vóc dáng cao, người đẫy đà, và là một y tá tốt nghiệp trường y tá Đông Dương… trên đường dinh tê, cả hai, An và Vân bị một đồn quân Pháp bắt giam một thời gian ngắn, sau nhờ họ nói khá tiếng Pháp và không biết cơ may sao đó, cả hai được thả tự do đồng thời.
 
Sau khi có được thẻ căn cước thì chú An được làm việc lại cho nhà thương Hà nội và có lương bổng hàng tháng hẳn hoi. Cũng tình cờ do đấy, khi chú Bình hay tin vợ con túng bấn lúc hồi cư, chú Bình đề nghị chú An giúp đỡ cô Vân ít nhiều để nuôi hai đứa bé thiếu bố mẹ từ lúc sinh ra, nên èo uột đau bệnh luôn luôn.
 
Rồi tình cảm nảy sinh, phải gọi là « ransformer de sentimen », một sự di chuyển tình cảm giữa hai người, bạn và vợ, giữa chú An và cô Vân. Cô lúc nào cũng xinh xắn, da trắng má hồng, dáng vẻ thon gọn như ngày còn con gái mới ra chiến khu.
 
Lúc đó thì chú Bình là trưởng ban chính trị của trung đoàn 48, mệnh danh là trung đoàn Thăng Long. Bấy giờ chú như là một bộ đội chính quy, cứ phải rời đi, rời đi xa mãi trong các vùng giải phóng… từ liên khu III, liên khu IV đến chiến khu Việt Bắc. Quân đội Pháp mở rộng mặt trận ra xa ngoại vi các địa phương họ đã kiểm soát được.
 
Tiếng súng, tiếng đạn, mìn, không còn nghe nổ ở Hà Nội. Từ độ đó, chú Bình không còn kịp nhắn tin về hậu phương. Chú An có nhờ người theo dõi tìm bạn, nhưng gần 2, 3 năm trời họ mất liên lạc. Không một âm hao.
 
Mùa thu 1953, chú An và cô Vân thành vợ chồng. Họ sống ở Hải Phòng, phố Hàng Kênh, chợ Con. Cô chú vẫn chu cấp tài chánh đều đặn cho bà nội nuôi hai cháu Bé và Tí trên Hà Nội. Hai đứa thích ở với bà nội hơn về dưới cảng.
 
Chú An là một y tá tốt nghiệp ngành y tá Đông Dương, phòng khám của chú ở Hàng Kênh do nhà nước tài trợ điều khiển, bệnh xá khá rộng, có phòng chờ phía ngoài, phòng khám phía trong. Sát cạnh bệnh xá là một bảo sanh viện công do cô đỡ Hiếu điều khiển, cô Hiếu Là đồng chí đi kháng chiến một lượt với Bình, An và Vân.
 
Cô Hiếu cùng về thành phố và cũng bị phòng nhì Pháp bắt giữ một thời gian, sau có một thế lực mạnh bảo lãnh ra và được hành nghề chuyên môn. Không hiểu sao chú An không lấy cô Hiếu cho yên chuyện, vì cô Hiếu còn xinh xắn và khéo léo hơn cô vân. Mà chú cắc cớ đi ăn ở với cô Vân làm cho má chồng cô và các con gái cô càng ngày càng xa lánh cô!
 
Phía trên phòng khám của chú An là một căn lầu rộng gồm hai gian, thoáng, mát. Chú An và cô Vân cư ngụ nơi đó. Họ làm thành một gia đình hạnh phúc… sau những ngày sống lây lất ở ngoài kia và bị Việt Minh lừa gạt, phỉnh gạt thì đúng hơn. Ở vùng ngoài, vùng giải phóng của Việt Minh, ngoài việc bị lợi dụng, họ còn lỡ dở việc học hành, lỡ dở cả tình yêu với tuổi thanh xuân lận đận.
 
Lúc trở lại Hải Phòng những năm 1952-1953-1954, họ tìm lại hạnh phúc bên nhau, niềm hạnh phúc của họ vừa pha trộn tình yêu, vừa tình bạn, vừa tình đồng chí thấy rất hào phóng, nhưng mà lấy vợ của bạn thì không nguyên vẹn! Hơi tức cười và họ hàng còn gọi là chướng tai gai mắt. Cũng tội nghiệp!
 
Tôi cứ nhớ mãi, khi tháng sáu năm 1953, tôi vào phòng thăm cô vân mới sanh em cường. Con của chú An, tôi thoáng thấy trên đầu giường đôi, có một cặp gối trắng, ở một góc chéo, cô Vân khéo léo thêu đậm chỉ màu lam, hai chữ A và V lồng vào nhau rất sắc sảo. Họ đã quên hẳn người đồng chí đang lặn lội ngoài xa.
 
Rồi đùng một cái, mặt trận Điện Biên Phủ thất bại. Pháp đành dàn chào thua. Việt Minh kéo về tiếp quản Hà Nội tháng 10 năm 1954.
 
Và mùa di cư ào ạt vĩ đại đó, kẻ khóc người cười lỡ dở, bao nhiêu biến động, bao nhiêu đổi thay, bao nhiêu là dang dở. Và nhiều gia đình bị chia cắt.
 
Cô Vân tôi vào tháng 10 năm 1954. Cô như có hai ông chồng, chú Bình, người chồng lấy ở vùng kháng chiến, lúc này đang trên đường về Hà Nội, sát ngay sau lưng. Còn người chồng trước mặt, chú An, đang toan tính cùng cô di cư vô Nam bộ, cô đã có với chú, bé trai Cường, 2 tuổi, và cô đang mang thai một bé khác 7 tháng bụng khá nặng nề, đi đứng đã khó khăn.
 
Cô vừa thu xếp đồ đạc hành lý ra đi vừa khóc ấm ức, có lúc lặng lẽ, đồ đạc hành lý cô chia làm hai phần, một phần để mang đi Sài Gòn, một phần để mang lên Hà Nội.
 
Đồ mang đi di cư, chú An đẩy hết vô gầm giường, chú sợ cô loạng quạng rồi vấp té.
 
Đồ mang lên Hà Nội, cô chất cũng đầy 2 valises. Cô nói cô phải về Hà Nội thăm hai con gái… cô khóc hoài, cô bảo cô đứt ruột vì sắp xa các con những hai năm. Cô còn nói như cô uống thuốc liều, liều gặp chú Bình để xin lỗi đã lỡ hẹn vợ chồng.
 
Cô cứ khóc tức tưởi nhiều ngày, hai mắt sưng vù cô phải đeo kính râm to và đậm màu. Cô khéo lo xa, chứ ai ai cũng lo việc riêng, ai còn thần trí nào mà dòm cô!
 
Rồi tuần lễ sau đó, cô tôi từ Hà Nội về, thấy cô bình thản hơn lúc ra đi. Cô bình thản đến độ có thể ngồi im hàng giờ không nói năng gì cả… mấy lúc sau thì cô cũng có kể lại là cô đã đến gặp chú Bình. Hai người hỏi thăm bạn bè xa gần, nói chuyện tự nhiên, rồi vui vẻ. Chú có cùng cô đi dạo mát xung quanh hồ tây. Chú dặn cô nhiều lần giữ gìn sức khỏe và nín đi, khóc như thế đó đã quá đủ rồi.
 
Chú Bình có làm quà tặng cho cô Vân một cái ca để uống nước, ca bằng nhôm, còn mới, sáng loáng, phía ngoài có khắc nổi tên chú, Trần An Bình, chú cũng gửi lời thăm chú An và cám ơn chú An đã giúp đỡ cô nuôi hai đứa bé gái qua những ngày cơ nhỡ túng đói năm xưa.
 
Rồi một ngày cuối cùng ở Hà Nội, chú Bình dậy sớm mua bánh khúc cho cô ăn, xong, chú vội đưa cô ra gare Hàng Cỏ.
 
Trước giờ xe hỏa khởi hành, chú còn kịp mang lên toa cho cô 2 cái valises đầy áo quần của hai con bé, mà cô đã cặm cụi may, chú đã mở ra coi và đã tỉ mỉ xếp lại như cũ… từng chiếc áo, từng chiếc quần. Chú nhờ cô mang theo, giả như nếu có một dịp nào đó, may mắn mà gặp lại, thì cô trao lại cho các con. Trong đó, giữa mớ quần áo, chú đã viết cho các con gái chú một lá thư trần tình và tạm biệt.
 
… Vì chú đã không được gặp mặt các con. Chú đã về tới Hà Nội có hơi trễ, năm ngày trước đó, hai đứa Bé và Tí đã theo ông bà nội xuôi Hải Phòng rồi theo tàu vận chuyển di cư khổng lồ đầu tiên của hải quân Mỹ đã đi vào hải cảng Tourane…
 
Paris hè 2024
nhớ về chuyện di cư 1954
Chúc Thanh

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.