Hôm nay,  

Đã Từng Có 40 Năm Người Ta Thi Làm Thơ Ở Thế Vận

09/08/202400:00:00(Xem: 1272)

The Van
Hồi sinh sự kết hợp giữa thể thao và nghệ thuật từ thời Thế vận cổ đại là kế hoạch mà Pierre de Coubertin, vị Nam tước người Pháp được mệnh danh là cha đẻ của Thế vận hiện đại, luôn ấp ủ.
(Nguồn: pixabay.com)
 
Ở Hy Lạp thời cổ đại, Thế vận hội Olympics không chỉ là sự kiện để các vận động viên thể hiện sức mạnh và tài năng, mà còn là dịp để những tâm hồn thi ca tỏa sáng – họ sẽ mang những vầng thơ của mình xướng lên trước đám đông khán giả đang háo hức. Và thời đó, các vận động viên cũng thường cậy nhờ những thi sĩ nổi tiếng sáng tác những bài thơ ca ngợi chiến thắng vinh quang của mình. Sau đó, những bài thơ này sẽ được các dàn hợp xướng biểu diễn trong các buổi lễ long trọng. Có một thời văn-võ đã song hành với nhau như thế.
 
Hàng ngàn năm sau, hình ảnh kết hợp giữa thi ca và thể thao của Olympics cổ đại đã thu hút Pierre de Coubertin, vị Nam tước Pháp được mệnh danh là cha đẻ của Thế vận hiện đại vào năm 1896. Tuy nhiên, các kỳ Thế vận ngày nay đã không còn giống với tầm nhìn vĩ đại của Coubertin: một cuộc thi là lễ đường cho cuộc tái hôn giữa thể chất và trí tuệ.
 
Nam tước Coubertin tin rằng nhân loại đã “mất hết cảm giác về sự hòa hợp” (eurythmy), từ “eurythmy” dùng để mô tả sự kết hợp hài hòa giữa nghệ thuật và thể thao. Ý tưởng này đã được nêu ra từ rất lâu, chẳng hạn như trong tác phẩm The Republic của Plato, Socrates ca ngợi giá trị của một nền giáo dục kết hợp giữa “thể dục thể thao để rèn luyện cơ thể và âm nhạc để nuôi dưỡng tâm hồn.” Các nhà thơ nên tham gia thể thao, còn các vận động viên nên thử sức với thi ca.
 
Triết lý này đã dẫn đến việc đưa 5 bộ môn nghệ thuật trở thành các môn thi đấu chính thức vào Thế vận hội Stockholm năm 1912. Tác phẩm văn thơ hiện đại đầu tiên giành huy chương vàng Olympic là “Ode to Sport,” một bài thơ xuôi của Georges Hohrod và M. Eschbach. Mở đầu của bài thơ:
 
Ôi Thể thao, lạc thú của thánh thần, tinh túy vô ngần của sự sống! Giữa cảnh đời xám xịt đa đoan, giữa muôn trùng khổ lao vô nghĩa, một sứ giả giáng trần, rạng ngời với những thông điệp từ cái thời đã lui dần vào quá khứ, thuở nhân thế còn biết nở nụ cười.
Và tám câu tiếp theo là:
Ôi Thể thao, Thể thao là Danh dự! Những giải thưởng kia có nghĩa lý gì nếu vắng công bằng, minh bạch… Ôi Thể thao, Thể thao là Vui thú! Theo tiếng gọi của Thể thao, thân xác biết vui và mắt hiện ý cười… Ôi Thể thao, Thể thao là Sinh lực tràn đầy!... Ôi Thể thao, Thể thao là Tiến bộ từng ngày!
 
Độc giả ngày nay thường không mấy ấn tượng với bài thơ đầu tiên giành huy chương vàng Thế vận. Nhiều người nhận xét bài thơ này quá “hoa mỹ,” “làm bộ” hoặc “làm quá.” Nhưng theo hội đồng ban giám khảo năm 1912, Hohrod và Eschbach đã hoàn toàn chinh phục được họ.
 
Ý kiến của ban giám khảo năm 1912 viết rằng: “Đối với chúng tôi, ‘Ode to Sport’ rất xuất sắc, và bài thơ này thể hiện được tinh thần mà cuộc thi đang tìm kiếm.
 
Có lẽ chẳng có gì ngạc nhiên khi Hohrod và Eschbach có thể hiểu rõ tinh thần của cuộc thi đến như vậy, vì Hohrod và Eschbach thực ra chỉ là bút danh của người đã nghĩ ra toàn bộ ý tưởng về cuộc thi nghệ thuật trong Thế vận: tác giả của “Ode to Sport” không ai khác hơn là Pierre de Coubertin.
 
Các cuộc khai quật lớn đầu tiên tại Olympia, nơi tổ chức các kỳ Thế vận thời cổ đại, bắt đầu vào những năm 1870. Người ta đã phát hiện được nhiều tàn tích và hiện vật quý giá.
 
Khi còn nhỏ, Coubertin từng được chứng kiên những tàn tích của thành Rome cổ đại trong các chuyến viếng thăm cùng gia đình. Đến khi trở thành thiếu niên, ông theo học tại một trường dòng Jesuit. Nền giáo dục cổ điển càng làm tăng niềm đam mê của Coubertin đối với văn hóa Hy Lạp cổ đại.
 
Richard Stanton, tác giả của cuốn “The Forgotten Olympic Art Competitions,” từng giải thích điều này trong một bài phỏng vấn với tạp chí Smithsonian năm 2012: “Coubertin được nuôi nấng và giáo dục theo phong cách cổ điển, và rất ngưỡng mộ quan niệm của người Hy Lạp cổ về một Thế vận văn võ song toàn, không chỉ giỏi thể thao mà còn xuất sắc trong các lĩnh vực khác. Ông tin rằng Thế vận thời hiện đại cần bao gồm cả các khía cạnh nghệ thuật để tái hiện một cách toàn diện và đầy đủ tinh thần của Thế vận thời cổ đại.
 
Tuy nhiên, các nhà đồng tổ chức lại không mấy mặn mà với ý tưởng của vị Nam tước này. Sau vài lần thất bại, Coubertin thành lập Ủy ban Thế vận Quốc tế (International Olympic Committee, IOC) vào năm 1894, và kỳ Thế vận đầu tiên của thời hiện đại diễn ra tại Athens 2 năm sau đó. Nhưng Thế vận 1896 lại chỉ có các môn thi thể thao như ném đĩa, bơi lội, đấu kiếm và nhảy sào. Dù có thêm một số bộ môn mới vào các năm 1900 (thủy cầu và bắn cung) và 1904 (đấu quyền anh và quần vợt lacrosse), nhưng sự kết hợp mà Coubertin mong muốn vẫn chưa xảy ra.
 
Coubertin vẫn không ngừng theo đuổi mục tiêu của mình. Khi biết rằng Rome sẽ tổ chức Thế vận năm 1908, ông biết rằng cơ hội đã chín muồi. Ngày 5/8/1904, một bài báo của Coubertin có tiêu đề là “Olympiad Roman” được đăng trên trang nhất tờ Le Figaro của Pháp, trong đó viết rằng:
 
Đã đến lúc bước vào một giai đoạn mới, khôi phục lại vẻ đẹp ban đầu của Thế vận. Trong thời hoàng kim của Olympia… nghệ thuật và văn thơ luôn sánh bước cùng thể thao để làm nên các kỳ Thế vận vĩ đại và tuyệt vời. Tương lai cũng vậy… Hãy để La Mã hiện đại mang đến cho chúng ta một kỳ Thế vận điển hình, tái hiện những vinh quang xưa cổ: đưa nghệ thuật chung bước đồng hành với thể thao.
 
Coubertin tin rằng mối liên kết giữa thể thao và nghệ thuật không chết theo sự sụp đồ của Thế vận cổ đại Olympia, và đã đến lúc “khôi phục trọn vẹn lý tưởng này.” Sau ba kỳ Thế vận đầu tiên của thời hiện đại, việc “kết hợp thể chất và trí tuệ” là “khả thi và cần thiết.
 
Hai năm sau, IOC đã tổ chức một hội nghị để cân nhắc về “việc các bộ môn nghệ thuật, đặc biệt là văn thơ, có thể tham gia vào Thế vận như thế nào.” Bàn về văn thơ, họ thảo luận về “khả năng tổ chức các cuộc thi văn thơ trong Thế vận” và “cảm xúc đối với thể thao sẽ là nguồn cảm hứng sáng tác.
 
Coubertin đã có một bài phát biểu đầy nhiệt huyệt tại lễ khai mạc, nhấn mạnh sự tái kết hợp giữa thể chất và trí tuệ. Ông nói: “Nếu tôi nói rằng ngày nay ‘họ’ đang khao khát mãnh liệt được tái hôn’ thì là tôi nói dối. Sự kết hợp này đã từng rất thành công, nhưng sự xa cách lâu ngày đã khiến họ trở nên xa lạ và không mặn mà nữa. Xa mặt thì cách lòng.
 
Cuối cùng, các viên chức đồng ý thêm năm cuộc thi nghệ thuật vào Thế vận năm 1908, bao gồm văn thơ, hội họa, điêu khắc, âm nhạc và kiến trúc. Tất cả các tác phẩm tham gia các hạng mục này, được gọi chung là Năm môn Nghệ thuật phối hợp (Pentathlon of the Muses), cần phải được lấy cảm hứng từ thể thao, khôi phục được sự hòa hợp mà Coubertin đã hình dung.
 
Định mệnh trêu ngươi, ý người không bằng ý trời, những kế hoạch này đã bị một sự kiện lớn phá hỏng: Núi lửa Vesuvius thức giấc vào mùa xuân năm 1906. Khoảng 200 người đã thiệt mạng trong thảm họa này. Dù so ra thì con số không cao bằng hàng ngàn người chết vụ phun trào năm 79 sau Công Nguyên, nhưng sự kiện này đã làm gián đoạn kỳ Thế vận ở Rome, và các cuộc thi buộc phải dời đến London. Các cuộc thi đấu về nghệ thuật sau đó đã bị hoãn lại mãi đến Thế vận Stockholm năm 1912.
 
Số lượng người tham gia trong năm đầu tiên khá thất vọng, chỉ thưa thớt khoảng ba chục thí sinh tham gia hạng mục Năm môn Nghệ thuật phối hợp. Cuộc thi văn thơ chỉ nhận được không tới mười bài dự thi, trong đó có bài thơ của Coubertin viết dưới bút danh Hohrod và Eschbach. Nhưng tình hình đã khả quan hơn trong kỳ Thế vận năm 1924, và đến năm 1928, các cuộc thi nghệ thuật đã thu hút hơn 1,000 bài dự thi. Thời điểm đó, năm hạng mục nghệ thuật lại được phân chia thành các phân mục nhỏ hơn. Thí dụ, các thi sĩ có thể ghi danh thi đấu ở hai thể loại là “sử thi” hoặc “trữ tình.”
 
Tony Perrottet, tác giả của cuốn “The Naked Olympics: The True Story of the Ancient Games,” viết trên tờ New York Times vào năm 2012 rằng ngay từ đầu, hạng mục văn thơ (chủ yếu là thi ca) đã vấp phải nhiều tranh cãi. Thể thao không phải là chủ đề hấp dẫn trong mắt các nhà thơ nổi tiếng đầu thế kỷ 20, “khiến cho các cuộc thi trông giống như một tiết mục phụ, chất lượng bình dân.” Những tên tuổi lớn như William Butler Yeats của Ireland đã không tham gia các cuộc thi văn thơ trong Thế vận, mặc dù anh em của Yeats là Jack Butler Yeats, đã giành huy chương bạc trong bộ môn hội họa vào năm 1924. Robert Graves, một nhà thơ nổi tiếng của Anh, cũng tham gia kỳ Thế vận năm đó và thua cuộc, về sau đã viết trong một bức thư rằng cuộc thi là một “trò hề dở khóc dở cười.
 
Những thách thức mới đã xuất hiện trong Thế vận Berlin năm 1936. Adolf Hitler đã đồng ý tổ chức các kỳ Thế vận sau khi bộ trưởng tuyên truyền Joseph Goebbels nói rằng sự kiện này sẽ là cơ hội để chứng minh sự vượt trội của chủng tộc Aryan. Goebbels cũng đã giúp tổ chức các cuộc thi nghệ thuật trong kỳ Thế vận năm đó, và đã trao tổng cộng 9 huy chương vàng cho tất cả các hạng mục; 5 trong số đó thuộc về người Đức. Chỉ có một vận động viên Hoa Kỳ giành huy chương: Charles Downing Lay giành huy chương bạc ở phân mục “thiết kế quy hoạch đô thị,” thuộc hạng mục kiến trúc. Trong các phân mục thuộc về văn thơ, Đức giành huy chương vàng cho các tác phẩm thơ trữ tình, còn Phần Lan chiến thắng trong phần sử thi.
 
Việc lưu giữ hồ sơ và tác phẩm dự thi của các cuộc thi nghệ thuật tại Thế vận cũng không ổn định, và nhiều tác phẩm thắng giải đã biến mất một cách khó hiểu. Một số nhà phê bình cho rằng lý do có thể là chất lượng của các tác phẩm này không cao, nên chúng không được bảo tồn. Trong một bài đăng trên tờ Times năm 2012, Perrottet đã chỉ ra rằng các nhà sử học đã tìm kiếm trong vô vọng những tác phẩm lớn như “A Rider’s Instructions to His Lover,” của thi sĩ người Đức Rudolf Binding, tác phẩm đã giành huy chương bạc tại Thế vận Amsterdam năm 1928. Hay bài thơ của nhà vô địch bóng bầu dục Pháp Charles Gonnet ca ngợi các vận động viên Hy Lạp cổ đại, có tên là “Before the Gods of Olympia,” đã giành huy chương đồng tại Thế vận Paris năm 1924.
 
Trong nhiều năm, các nhà nghiên cứu về lịch sử Olympics đã cố gắng tìm kiếm bài thơ “Sword Songs” của Dorothy Margaret Stuart, giành huy chương bạc trong Thế vận năm 1924. Một thập niên trước, Perrottet tìm thấy bản sao của bài thơ tại Thư viện Công cộng New York. Bài thơ dài 37 trang “có chút lỗi thời” và “có chút hài hước.” Trong một phần của bài thơ, có cảnh diễn ra ở Scotland thời Trung Cổ, James IV đang quan sát hai chiến binh đấu kiếm với nhau như sau:
“Lách kiếm đâm sâu vào đối thủ
nhát vào khe hở nhát vào khớp
tẩn mạnh vào giáp tay, vào nón
phàm tất hai bên đều chịu đau.”
 
Năm môn thi Nghệ thuật phối hợp đã là một phần của Thế vận trong gần 40 năm, và đã trao tổng cộng khoảng 150 huy chương. Có những cột mốc đáng chú ý như: Robert Dover, vận động viên đồng tính đầu tiên tham gia Thế vận thời hiện đại vào năm 1988; và Ernst van Heerden, nhà thơ đồng tính người Nam Phi giành huy chương bạc trong kỳ Thế vận năm 1948. Tuy nhiên, sau kỳ Thế vận London năm 1948, các hạng mục nghệ thuật đã bị loại bỏ.
 
Quyết định của IOC về việc loại bỏ các hạng mục nghệ thuật khỏi Thế vận được cho là do “lý tưởng cao đẹp về tinh thần nghiệp dư thuần túy thời Corinthian mà Thế vận đã cam kết sẽ gìn giữ.” Theo đó, chỉ những người không kiếm sống từ nghệ thuật mới được tham gia các cuộc thi nghệ thuật trong Thế vận. Việc phân biệt giữa nghệ sĩ chuyên nghiệp và nghiệp dư rất khó khăn, và chất lượng của các tác phẩm dự thi đã giảm xuống mức trung bình.
 
Avery Brundage, chủ tịch IOC từ năm 1952, đã phản đối mạnh mẽ các cuộc thi nghệ thuật trong Thế vận. Richard Stanton, tác giả của cuốn “The Forgotten Olympic Art Competitions,” nghi ngờ sự phản đối của Brundage có thể liên quan đến thất bại ê chề của cá nhân ông này, vì ông này đã từng hai lần tham gia các cuộc thi văn thơ trong Thế vận mà không đạt thành tích cao, chỉ được một giải khuyến khích.
 
Ngày nay, các huy chương về nghệ thuật không còn được liệt kê trong các hồ sơ chính thức của Thế vận. Và dù đôi khi vẫn có những lời kêu gọi đưa các cuộc thi nghệ thuật trở lại với Thế vận, nhưng không thành công.
 
Coubertin qua đời vào năm 1937, và không nhìn thấy sự lụi tàn của các bộ môn nghệ thuật tại Thế vận. Nhưng trong cuốn hồi ký về Olympics xuất bản năm 1931, ông có bàn về lý do tại sao các bộ môn nghệ thuật trong Thế vận lại khó có thể thành công
 
Nam tước viết: “Nguyên nhân chính có thể được tóm tắt mấy từ: nỗi sợ cổ điển.” Ông tin rằng nỗi sợ này tràn ngập mọi hạng mục. Lấy thí dụ về văn thơ: thi sĩ “không thể mô tả chính xác niềm hân hoan của nỗ lực thể thao vì chính bản thân họ không quen thuộc với điều đó.” Còn trong hội họa, “các cảnh về thể thao đòi hỏi nhiều đường nét hơn màu sắc, điều này không hợp với khuynh hướng nghệ thuật đương thời.” Vậy còn âm nhạc thì sao? Coubertin viết: “Công chúng cũng không còn thích thú với các bản cantata ngoài trời.
 
Nguyên Hòa biên dịch
 
Nguồn: “Poetry Was an Official Olympic Event for Nearly 40 Years. What Happened?” được đăng trên trang Smithsonianmag.com.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở Hoa Kỳ, khi nghe đến cụm từ “giáo dục tổng quát,” người ta thường hình dung về những khóa học nhập môn trong các lĩnh vực nghệ thuật, nhân văn, khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và toán học. Tùy vào mỗi trường, chương trình này có thể mang những cái tên khác nhau như “chương trình căn bản” (core curriculum) hay “các môn học bắt buộc” (distribution requirements). Ngoài ra, chương trình này đôi khi còn có một tên gọi khác là “giáo dục khai phóng” (liberal education). Hội các trường Cao đẳng và Đại học Hoa Kỳ (American Association of Colleges and Universities, AACU) mô tả đây là chương trình giúp bồi dưỡng “tinh thần trách nhiệm xã hội, cùng với các kỹ năng trí tuệ và thực tiễn vững vàng có thể vận dụng linh hoạt.”
Trong nhiều năm kể từ khi Jeffrey Epstein được phát hiện chết trong phòng giam tại Metropolitan Correctional Center (MCC), New York, giới chức liên bang luôn khẳng định rằng cái chết này là một vụ tự sát. Tuy nhiên, một cuộc điều tra độc lập do CBS News thực hiện đã phơi bày hàng loạt mâu thuẫn giữa các tuyên bố của chính phủ và những gì thực sự hiện ra trong đoạn phim giám sát vừa được công bố.
Cuối mùa Hè năm 1955, Till-Mobley tiễn con trai của bà, Emmett Till 14 tuổi lên một chuyến tàu từ Chicago đến thăm chú và các anh em họ của Emmett ở quê hương Mississippi của bà. Giống như những phụ nữ và đàn ông da đen nói với con cái họ về việc chú ý các điểm dừng giao thông và các cuộc chạm trán khác với cảnh sát, Till-Mobley đã căn dặn Emmett rất kỹ. Bà cho cậu biết cậu đang đi đến một nơi mà an toàn phụ thuộc vào khả năng kiềm chế sự bốc đồng, tính cách không khuất phục của cậu với người da trắng. Linh cảm của người mẹ mang đến trong lòng bà nỗi bất an không giải thích được. Bà đưa cho Emmett chiếc nhẫn bạc của ông Louis Till, cha của cậu. Chiếc nhẫn khắc chữ L.T.
“Đi về Miền Nam, miền hương thơm bông lúa tràn ngập đầy đồng; Đi về Miền Nam, miền xinh tươi đất rộng cùng chung nguồn sống” Và cứ như thế, với tiếng hát trong tâm tưởng, từng đoàn người gồng gánh ra đi. Họ đi về hướng Nam giống như cha ông của mình từ bao nhiêu thế kỷ trước. Bây giờ lại còn một động lực mới và mãnh liệt khác, đó là đi tìm tự do: ‘chúng tôi muốn sống!’, như tên gọi một cuốn phim nổi tiếng của đồng bào di cư sau này. Cuối tháng 6, dù hiệp định đình chiến chưa ký kết nhưng quân đội Pháp và Quốc gia đã rút lui khỏi nhiều địa điểm ở đồng bằng Bắc Việt nên nhiều người bắt đầu di tản về các đô thị, đặc biệt là Hải phòng.
Cõi này ngày càng bất an! Tình trạng hâm nóng toàn cầu đã dẫn tới nhiều thảm họa như bão lụt, hạn hán, mực nước biển dâng cao, dịch bệnh, mất mùa, đói khát lầm than. Chiến tranh thù hận ngày càng hung bạo đã làm cho hàng triệu người thương vong, nhà cửa ruộng vườn bị phá hoại. Các chế độ độc tài, quân phiệt, và nạn kỳ thị sắc tộc đã thẳng tay đàn áp dân lành. Tất cả những điều trên đã dẫn đến thảm trạng bỏ nước đi của hàng triệu người trên thế giới! Theo Population Division of the United Nations Department of Economic and Social Affairs (UNDESA), năm 2024 có tới 304 triệu di dân trên toàn cầu, là một con số tăng gần gấp đôi kể từ năm 1990, khi lúc đó có 154 triệu di dân trên thế giới. Đó là 3.7% tổng dân số địa cầu. Theo Cơ Quan Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, tính tới cuối năm 2024, có 43.7 triệu người tị nạn, gồm 6 triệu người tị nạn từ Palestine và 8 triệu người xin được nhận vào quy chế tị nạn trên toàn cầu.
Trong số người Việt, thế hệ thứ nhất có 29% học xong cử nhân hay cao hơn. Thế hệ sinh ra lớn lên tại Hoa Kỳ con số này là 59%. Như thế có thể lý giải là phụ huynh không có cơ hội học cao nhưng khuyến khích con theo đuổi đường học vấn cho tương lai.
Khi các chuyên gia quan ngại về mối quan hệ của giới trẻ với thông tin trực tuyến, họ thường cho rằng giới trẻ tuổi không hiểu biết về phương tiện truyền thông như những người lớn tuổi hơn. Nhưng công trình nghiên cứu dân tộc học do Jigsaw – cơ sở công nghệ của Google - thực hiện lại tiết lộ một thực tế phức tạp và tinh tế hơn: Thế hệ Z, thường được hiểu là những người sinh sau năm 1997 và trước năm 2012, đã phát triển các chiến lược khác biệt rõ rệt để đánh giá thông tin trực tuyến, những chiến lược sẽ khiến bất kỳ ai trên 30 tuổi trở nên bối rối. Họ không tiếp thu thông tin như những người lớn tuổi hơn bằng cách đầu tiên đọc tiêu đề và sau đó là nội dung.
Người Việt Nam không ai xa lạ với từ ‘Gulag’ - trại tù lao động khổ sai khét tiếng của Liên Bang Xô Viết. Ước tính trong khoảng hai thập niên từ 1930-1953, nơi đây giam giữ khoảng 4 triệu tù nhân; 1.5 triệu đã chết trong tù hay sau khi được thả một thời gian ngắn. Gulag từng được xem là địa ngục trần gian, là biểu tượng cho sự tàn bạo của nhà tù cộng sản. Trong những ngày cuối tháng 6, khi mà người dân Mỹ chuẩn bị pháo hoa đón mừng Lễ Độc Lập, cái tên Gulag được sử dụng khi nói đến một nhà tù mới được hình thành ở Florida. Nhà tù này có tên gọi là Alligator Alcatraz. Trong một bài viết được đăng trên trang mạng Amrican Community Media ngày 30/06/2025, nhà báo Laszlo Bartus đã cảnh báo rằng nó sẽ là nhà tù vô nhân đạo nhất thế giới.
Trong hơn bảy mươi năm qua, quan hệ giữa Hoa Kỳ và Iran đã trải qua nhiều bước ngoặt – từ một liên minh chiến lược thời Chiến tranh Lạnh, đến một trong những nước đối đầu gay gắt và kéo dài nhất của thời đại hậu thuộc địa. Bản tóm lược dưới đây ghi lại những cột mốc chính từ năm 1953 đến 2025, nhằm cung cấp một cái nhìn toàn diện về diễn biến phức tạp của quan hệ Hoa Kỳ–Iran trong bối cảnh biến động địa chính trị toàn cầu.
Tháng 5 vừa qua, một chuyến bay từ Johannesburg, Nam Phi đã đáp xuống phi trường Quốc tế Dulles, Hoa Kỳ. Trên phi cơ là khoảng 50 công dân Nam Phi da trắng thuộc cộng đồng Afrikaner. Những người này cho biết sinh kế của họ đang bị đe dọa nghiêm trọng do xã hội ngày càng “kỳ thị người da trắng.” Cách mô tả tình hình Nam Phi như vậy ngay lập tức nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ từ các nhà bình luận cánh hữu có ảnh hưởng ở Mỹ như Tucker Carlson, Charlie Kirk, và Stephen Miller.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.