Hôm nay,  

Hoa Kỳ: Từng Có Một Thời Xấu Xí Là Phạm Pháp

06/09/202400:00:00(Xem: 1293)

Adam Pearson

“Adam Pearson bị bệnh u xơ thần kinh loại 1, một tình trạng khiến khối u lành tính phát triển trên các đầu dây thần kinh - trong trường hợp của anh, các khối u mọc trên khuôn mặt. Anh bị biến dạng và tàn tật và đã trực tiếp trải qua nhiều hành vi bạo lực và trở thành mục tiêu của một số lời nói căm thù thô tục trên mạng. Mặc dù điều này không phải là bất thường đối với bản thân, nhưng lần đầu tiên Adam quyết định hành động, báo cáo với cảnh sát - với một số kết quả không ngờ tới.” 

Trong suốt gần một thế kỷ tại Hoa Kỳ, các “luật xấu xí” đã cấm những người bị khiếm khuyết và tật nguyền xuất hiện ở nơi công cộng. Đó là tiêu chuẩn khắc nghiệt của xã hội về vẻ đẹp, cũng là nỗi đau của những người không phù hợp với chuẩn mực ấy. Nguồn hình: BBC.



Có nghiên cứu đã chỉ ra rằng sắc đẹp sẽ mang lại lợi thế trong các mối quan hệ, học tập và công việc. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu việc “không được đẹp đẽ” không chỉ là một điều bất lợi mà còn bị coi là phạm pháp? Từ giữa thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20, ở Hoa Kỳ từng có các luật gọi là “luật xấu xí” (ugly laws), cấm những người có vẻ ngoài “khó coi” xuất hiện ở các nơi công cộng.
 
Chúng ta vẫn thường nghe nói về “đặc quyền của cái đẹp”, tức là các lợi thế mà những người có vẻ ngoài phù hợp với tiêu chuẩn về sắc đẹp của xã hội được hưởng mà không cần phải nỗ lực gì nhiều. Nhưng trong quá khứ, Hoa Kỳ đã từng có những luật lệ biến việc “không đạt các tiêu chuẩn về sắc đẹp” thành “chuyện lớn.” Những luật này cho thấy xã hội chúng ta từng coi thế nào là đẹp, thế nào là không đẹp, và không đẹp thì sẽ phải gánh chịu những hậu quả gì.
 
Sự trỗi dậy của đặc quyền dành cho cái đẹp
 
Khi các thành phố ngày càng phát triển và trở nên đông đúc, việc duy trì trật tự và mỹ quan đô thị cũng được chú trọng hơn. Năm 1867, San Francisco là thành phố đầu tiên ở Hoa Kỳ ban hành luật quy định “bất kỳ ai bịnh hoạn, tàn tật, què quặt hoặc bị dị dạng đến mức khó coi hoặc ghê tởm” mà “xuất hiện ở nơi công cộng” là hành vi phạm pháp.
 
Các luật này nhanh chóng lan rộng đến các thành phố và tiểu bang khác, bao gồm Reno, Nevada; Portland, Oregon; Chicago, Illinois; New Orleans, Louisiana và Pennsylvania. Luật chủ yếu nhắm vào những người có khuyết tật mà mắt người có thể nhìn thấy rõ. Theo Susan M. Schweik, tác giả của cuốn sách “The Ugly Laws: Disability in Public” (xin tạm dịch là “Luật Xấu Xí: Người Tật Nguyền Nơi Công Cộng”), đây không chỉ là những quy định về ngoại hình, mà còn là một phần trong nỗ lực kiểm soát hành vi ứng xử của công chúng và áp đặt các chuẩn mực xã hội, thường sẽ đi cùng với các quy định cấm đoán khác liên quan đến chủng tộc, di dân và người vô gia cư sống lang thang.
 
Một số người viện lý do rằng các luật này là biện pháp cần thiết để bảo vệ sức khỏe cộng đồng, vì ngây thơ tin rằng nhìn thấy người khuyết tật sẽ làm người ta “muốn bịnh” rồi có thể thành bị bịnh thật. Những người khác thì lo ngại rằng nếu cho phép những người không lành lặn thoải mái đi ăn xin trên đường phố, sẽ có những kẻ giả bộ bị què quặt để lợi dụng lòng nhân ái của mọi người mà kiếm tiền. Nhưng nói tới nói lui, thì nguyên nhân chính của các luật này vẫn là sự ghê tởm và kỳ thị.
 
Trong cuốn hồi ký “The Great Metropolis” (Đại Đô Thị) năm 1869 về cuộc sống ở thành phố New York, nhà báo Junius Henri Browne viết rằng “đang chuẩn bị đi ăn tối, hoặc đi thăm người yêu, hoặc mới nghĩ ra câu cuối cho bài thơ đang vắt óc sáng tác bữa giờ, mà bị một hình ảnh tởm lợm nào đó lọt vào mắt, thì thật chẳng dễ chịu chút nào.
 
Những luật này đã hất đổ chén cơm của nhiều người. Đó là những người tật nguyền đi bán hàng rong, ăn xin và trình diễn trên đường phố. Họ phải ngừng kiếm sống bởi vì sự có mặt của mình ở nơi công cộng làm cho mọi người mất hứng.
 
Một thí dụ là vào giữa những năm 1910, một ông 35 tuổi ở Cleveland bị què cả tay và chân đã phải nghỉ việc bán báo dạo, và rồi cả gia đình rơi vào túng quẫn. May mắn thay, chủ một tiệm thuốc thương tình cho ông đứng bán trên bậc thềm trước cửa tiệm, vì chỗ đó là tài sản tư nhân chứ không thuộc quyền kiểm soát của thành phố.
 
Schweik cho biết. “Các luật này không nhắm vào Helen Keller và Tổng thống Franklin D. Roosevelt, mà chủ yếu nhằm ngăn chặn những người bị tật nguyền đến những nơi công cộng để xin tiền.
 
Một số người ủng hộ luật này tin rằng thay vì để những người khuyết tật sống lang thang, tự kiếm sống trên đường phố, họ nên được đưa vào các cơ sở đặc biệt để được chăm sóc tốt hơn. Nhưng thực tế cách làm này chỉ khiến họ bị tước quyền tự quyết và bị cô lập khỏi xã hội.
 
Không phải ai cũng tán thành các luật kỳ thị ngoại hình xấu xí. Một số thị trưởng đã cấp giấy phép bán hàng rong dành riêng cho người tật nguyền để họ vẫn giữ được kế sinh nhai. Khi cảnh sát cố gắng bắt giữ họ trên phố, thường sẽ có nhiều người qua đường đứng ra can thiệp, cản trở.
 
Thí dụ như vào năm 1936, khi một cảnh sát viên ở Chicago đang cố gắng rượt bắt một ông da đen bị cụt chân tên là Ben Lewis, mà cứ nhắm đá vào cái chân lành còn lại của ông này. Gần đó có 4 người da trắng thấy tức mình quá nên đánh luôn cảnh sát. Hàng trăm người khác cũng bất bình mà vây lại để giúp Lewis.
 
Tác động dai dẳng của “luật xấu xí”
 
Vụ bắt giữ cuối cùng liên quan đến các luật kỳ thị ngoại hình khó coi xảy ra vào năm 1974. Nhưng dù các luật này đã bị bãi bỏ từ lâu, tác động của chúng vẫn còn dai dẳng và ảnh hưởng đến thái độ của xã hội đối với người tật nguyền, và đặc biệt là trong quan điểm của nhiều người về việc ai được phép xuất hiện ở nơi công cộng, ai thì không.
 
Schweik cho biết: “Ngày nay, thay vì công khai áp dụng các luật kỳ thị ngoại hình khó coi, các thành phố có những kế hoạch còn cao thâm hơn. Họ nói là để giữ gìn mỹ quan đường phố và vỉa hè, nên họ cấm nhiều hành động trên đường phố công cộng chẳng hạn như đứng hoặc ngồi quá lâu, ngủ trên vỉa hè, hoặc mang vác theo quá nhiều đồ đạc, hoặc thể hiện rõ ràng là đang rất khó khăn và cần được giúp đỡ.
 
Điều tích cực duy nhất mà các luật lệ tàn nhẫn này có thể làm, đó là trở thành thí dụ điển hình về nạn kỳ thị và phân biệt đối xử đối với người tật nguyền. Nhờ vậy, phong trào bảo vệ quyền lợi của người khuyết tật được thúc đẩy mạnh mẽ vào những năm 1970. Và nhờ vào những nỗ lực đấu tranh của các nhà hoạt động ủng hộ người khuyết tật, Đạo luật Americans with Disabilities Act (ADA) đã được ban hành vào năm 1990, yêu cầu các công ty và chính phủ phải chú ý hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho người tật nguyền.

Nguyên Hòa biên dịch
Nguồn: “Illegal to be ’ugly’? The history behind one of America‘s cruelest laws” được đăng trên trang Nationalgeographic.com
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở Hoa Kỳ, khi nghe đến cụm từ “giáo dục tổng quát,” người ta thường hình dung về những khóa học nhập môn trong các lĩnh vực nghệ thuật, nhân văn, khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và toán học. Tùy vào mỗi trường, chương trình này có thể mang những cái tên khác nhau như “chương trình căn bản” (core curriculum) hay “các môn học bắt buộc” (distribution requirements). Ngoài ra, chương trình này đôi khi còn có một tên gọi khác là “giáo dục khai phóng” (liberal education). Hội các trường Cao đẳng và Đại học Hoa Kỳ (American Association of Colleges and Universities, AACU) mô tả đây là chương trình giúp bồi dưỡng “tinh thần trách nhiệm xã hội, cùng với các kỹ năng trí tuệ và thực tiễn vững vàng có thể vận dụng linh hoạt.”
Trong nhiều năm kể từ khi Jeffrey Epstein được phát hiện chết trong phòng giam tại Metropolitan Correctional Center (MCC), New York, giới chức liên bang luôn khẳng định rằng cái chết này là một vụ tự sát. Tuy nhiên, một cuộc điều tra độc lập do CBS News thực hiện đã phơi bày hàng loạt mâu thuẫn giữa các tuyên bố của chính phủ và những gì thực sự hiện ra trong đoạn phim giám sát vừa được công bố.
Cuối mùa Hè năm 1955, Till-Mobley tiễn con trai của bà, Emmett Till 14 tuổi lên một chuyến tàu từ Chicago đến thăm chú và các anh em họ của Emmett ở quê hương Mississippi của bà. Giống như những phụ nữ và đàn ông da đen nói với con cái họ về việc chú ý các điểm dừng giao thông và các cuộc chạm trán khác với cảnh sát, Till-Mobley đã căn dặn Emmett rất kỹ. Bà cho cậu biết cậu đang đi đến một nơi mà an toàn phụ thuộc vào khả năng kiềm chế sự bốc đồng, tính cách không khuất phục của cậu với người da trắng. Linh cảm của người mẹ mang đến trong lòng bà nỗi bất an không giải thích được. Bà đưa cho Emmett chiếc nhẫn bạc của ông Louis Till, cha của cậu. Chiếc nhẫn khắc chữ L.T.
“Đi về Miền Nam, miền hương thơm bông lúa tràn ngập đầy đồng; Đi về Miền Nam, miền xinh tươi đất rộng cùng chung nguồn sống” Và cứ như thế, với tiếng hát trong tâm tưởng, từng đoàn người gồng gánh ra đi. Họ đi về hướng Nam giống như cha ông của mình từ bao nhiêu thế kỷ trước. Bây giờ lại còn một động lực mới và mãnh liệt khác, đó là đi tìm tự do: ‘chúng tôi muốn sống!’, như tên gọi một cuốn phim nổi tiếng của đồng bào di cư sau này. Cuối tháng 6, dù hiệp định đình chiến chưa ký kết nhưng quân đội Pháp và Quốc gia đã rút lui khỏi nhiều địa điểm ở đồng bằng Bắc Việt nên nhiều người bắt đầu di tản về các đô thị, đặc biệt là Hải phòng.
Cõi này ngày càng bất an! Tình trạng hâm nóng toàn cầu đã dẫn tới nhiều thảm họa như bão lụt, hạn hán, mực nước biển dâng cao, dịch bệnh, mất mùa, đói khát lầm than. Chiến tranh thù hận ngày càng hung bạo đã làm cho hàng triệu người thương vong, nhà cửa ruộng vườn bị phá hoại. Các chế độ độc tài, quân phiệt, và nạn kỳ thị sắc tộc đã thẳng tay đàn áp dân lành. Tất cả những điều trên đã dẫn đến thảm trạng bỏ nước đi của hàng triệu người trên thế giới! Theo Population Division of the United Nations Department of Economic and Social Affairs (UNDESA), năm 2024 có tới 304 triệu di dân trên toàn cầu, là một con số tăng gần gấp đôi kể từ năm 1990, khi lúc đó có 154 triệu di dân trên thế giới. Đó là 3.7% tổng dân số địa cầu. Theo Cơ Quan Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, tính tới cuối năm 2024, có 43.7 triệu người tị nạn, gồm 6 triệu người tị nạn từ Palestine và 8 triệu người xin được nhận vào quy chế tị nạn trên toàn cầu.
Trong số người Việt, thế hệ thứ nhất có 29% học xong cử nhân hay cao hơn. Thế hệ sinh ra lớn lên tại Hoa Kỳ con số này là 59%. Như thế có thể lý giải là phụ huynh không có cơ hội học cao nhưng khuyến khích con theo đuổi đường học vấn cho tương lai.
Khi các chuyên gia quan ngại về mối quan hệ của giới trẻ với thông tin trực tuyến, họ thường cho rằng giới trẻ tuổi không hiểu biết về phương tiện truyền thông như những người lớn tuổi hơn. Nhưng công trình nghiên cứu dân tộc học do Jigsaw – cơ sở công nghệ của Google - thực hiện lại tiết lộ một thực tế phức tạp và tinh tế hơn: Thế hệ Z, thường được hiểu là những người sinh sau năm 1997 và trước năm 2012, đã phát triển các chiến lược khác biệt rõ rệt để đánh giá thông tin trực tuyến, những chiến lược sẽ khiến bất kỳ ai trên 30 tuổi trở nên bối rối. Họ không tiếp thu thông tin như những người lớn tuổi hơn bằng cách đầu tiên đọc tiêu đề và sau đó là nội dung.
Người Việt Nam không ai xa lạ với từ ‘Gulag’ - trại tù lao động khổ sai khét tiếng của Liên Bang Xô Viết. Ước tính trong khoảng hai thập niên từ 1930-1953, nơi đây giam giữ khoảng 4 triệu tù nhân; 1.5 triệu đã chết trong tù hay sau khi được thả một thời gian ngắn. Gulag từng được xem là địa ngục trần gian, là biểu tượng cho sự tàn bạo của nhà tù cộng sản. Trong những ngày cuối tháng 6, khi mà người dân Mỹ chuẩn bị pháo hoa đón mừng Lễ Độc Lập, cái tên Gulag được sử dụng khi nói đến một nhà tù mới được hình thành ở Florida. Nhà tù này có tên gọi là Alligator Alcatraz. Trong một bài viết được đăng trên trang mạng Amrican Community Media ngày 30/06/2025, nhà báo Laszlo Bartus đã cảnh báo rằng nó sẽ là nhà tù vô nhân đạo nhất thế giới.
Trong hơn bảy mươi năm qua, quan hệ giữa Hoa Kỳ và Iran đã trải qua nhiều bước ngoặt – từ một liên minh chiến lược thời Chiến tranh Lạnh, đến một trong những nước đối đầu gay gắt và kéo dài nhất của thời đại hậu thuộc địa. Bản tóm lược dưới đây ghi lại những cột mốc chính từ năm 1953 đến 2025, nhằm cung cấp một cái nhìn toàn diện về diễn biến phức tạp của quan hệ Hoa Kỳ–Iran trong bối cảnh biến động địa chính trị toàn cầu.
Tháng 5 vừa qua, một chuyến bay từ Johannesburg, Nam Phi đã đáp xuống phi trường Quốc tế Dulles, Hoa Kỳ. Trên phi cơ là khoảng 50 công dân Nam Phi da trắng thuộc cộng đồng Afrikaner. Những người này cho biết sinh kế của họ đang bị đe dọa nghiêm trọng do xã hội ngày càng “kỳ thị người da trắng.” Cách mô tả tình hình Nam Phi như vậy ngay lập tức nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ từ các nhà bình luận cánh hữu có ảnh hưởng ở Mỹ như Tucker Carlson, Charlie Kirk, và Stephen Miller.
DB Derek Trần: Tôi làm tất cả để bảo vệ cộng đồng mình trong vấn đề di trú

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.