Hôm nay,  

Tâm Tư Vơi Đầy

05/09/202415:01:00(Xem: 2349)
tủ sách kim loan
Hình: Tác Giả gửi.



Tôi quen với vợ chồng anh Quang từ rất lâu, lúc tôi đưa con gái đi học Kindergarten gặp anh chị cũng đưa con gái út đi học lớp 5 cùng trường, rồi nhận ra là đồng hương, bắt chuyện . Thấy tôi sôi nổi thích hoạt động, anh chị đề cử tôi cùng vào Ban Chấp Hành Hội Người Việt Edmonton.  Ông xã tôi bận rộn với tiệm thuốc Tây nên được... tha, nhưng luôn luôn ủng hộ tinh thần hoặc thời gian mỗi khi chúng tôi túi bụi với những chương trình sinh hoạt của cộng đồng.

Hơn nhau mười mấy tuổi, nên anh chị coi vợ chồng tôi như em trai em gái trong nhà. Chúng tôi hợp nhau ở tính tình dĩ hòa vi quý, tinh thần chống Cộng, sinh hoạt cộng đồng, và nói chuyện hài hước, thoải mái, đặc biệt là tâm hồn văn nghệ, văn thơ, báo chí.

Chuyện tình của anh chị cũng rất lãng mạn, rất văn nghệ. Nghe kể lại, thuở đó đầu thập niên 80s anh làm MC thiện nguyện trong cộng đồng còn thưa thớt người Việt, chị và mấy cô em gái tham gia tiết mục biểu diễn đàn tranh trong các chương trình văn nghệ do Hội Người Việt tổ chức. Lúc ấy, con gái rất có giá, chị xinh đẹp, biết bao nhiêu chàng trai vây quanh, nhưng cuối cùng chị chọn anh vì anh có tài lẻ là đờn ca, hơn hẳn mấy người khác. Ngày đám cưới, anh bước lên sân khấu, ôm đàn, rất lãng tử, hát tặng cô dâu bài Bên Kia Sông của Nguyễn Đức Quang với ánh nhìn say đắm:

Này người yêu, người yêu anh ơi!
Bên kia sông là ánh mặt trời
Bên kia đồi, cỏ hoa đan lối
......
Này người yêu anh hỡi!
Yêu nhau mình đưa nhau tới
Bước nhẹ - và nói êm xuôi
Nói cho vừa mình anh nghe thôi!

Mỗi lần nhóm chúng tôi tụ tập sân sau nhà anh chị, bên đống lửa bập bùng đêm hè, anh lại ca bài này, rồi nói chuyện văn nghệ, thời sự, sách báo... đến nửa đêm mới chia tay nhà ai nấy về . Anh thường nói:

-       Ngoài tình yêu Thiên Chúa, yêu quê hương, đất nước, cha mẹ anh chị em con cháu, thì bây giờ tôi còn có hai tình yêu lớn, đó là bà xã tôi và sách báo.

Tủ sách nhà anh, dưới basement, tuy không lớn, nhưng được trình bày rất mỹ thuật, gọn gàng. Nhiều lúc tôi đứng ngắm sách, anh bảo:

-       Phía dưới này là sách tôi có thể tặng nếu cô muốn cuốn nào thì cứ lấy. Còn phần trên đây là không cô nhé, sách quý của tôi đấy, cô chỉ được mượn thôi.

Thời gian trôi qua mau, hai đứa con gái của anh chị lấy chồng, đám cưới đều do tôi làm MC. Một đứa theo chồng về Vancouver, một đứa thì qua bên Toronto, còn lại anh chị về hưu, quanh quẩn bên nhau hưởng thú vui điền viên, nghe nhạc, đọc sách, tụ tập bạn bè. Thỉnh thoảng anh chị đi du lịch đó đây, thăm gia đình hai con gái và các cháu ngoại.

Rồi chị qua đời vì bệnh tim, bỏ lại anh thui thủi một mình, nhưng vốn là người lạc quan vui vẻ, anh mau chóng ổn định tinh thần, tiếp tục cuộc sống tuổi già với những niềm vui hàng ngày trong căn nhà bé nhỏ.

Sau khi mãn tang chị một thời gian, anh gọi điện thoại cho tôi:

-       Cô Loan ơi, tôi có một chuyện quan trọng muốn nhờ cô giúp, mong cô đừng từ chối.

Tôi cười, trêu anh:

-       Chắc anh tính nhờ em mai mối một cô một bà nào đó, đúng không nà?

-       Ôi giào, tôi còn “xí quách” nữa đâu mà đi thêm bước nữa, cô tha cho tôi đi! Tôi sẽ dọn về Toronto ở với vợ chồng đứa con gái út cô ơi. Tụi nó kêu mấy năm nay, bây giờ tôi mới đồng ý.

-       Thật ư? Edmonton và tụi em sẽ rất nhớ anh đấy, nhưng anh đã quyết định đúng, tuổi già nên sống gần con cháu. Vậy chuyện quan trọng anh tính nhờ em là chuyện gì?

Bấy giờ anh ấy mới tâm sự:

-       Chẳng giấu gì cô, lần này tôi đi qua Toronto là để sống đoạn cuối cuộc đời, mấy lần trước con gái và thằng rể qua đây đã phụ mang một mớ đồ của tôi qua bển, kỳ này tôi chỉ mang vài cái va ly. Tôi còn hai thùng sách, một thùng là gần trăm số báo Làng Văn tôi gìn giữ bao lâu, một thùng là những cuốn sách tôi yêu quý. Tôi chỉ biết cậy nhờ cô giữ, hay nói thẳng ra là tôi tặng cô.

-       Nhưng ...

-       Khoan! Cô để tôi nói hết nhé. Thùng báo Làng Văn cô xem bạn bè ai thích thì cho, còn không thì cô có thể đem ra thùng rác “recycle” để họ đem đi giùm tôi. Còn thùng sách, có những cuốn nào thích thì giữ lại, tôi tin là cô sẽ thích, ví dụ như 4 cuốn Hồi Ký Phạm Duy do chính  tác giả ký tên tặng khi ông qua Edmonton trình bày Tổ Khúc Bầy Chim Bỏ Xứ,  rồi Hồi Ký Lý Tống, và nhiều sách giá trị khác, những cuốn thân hữu ra mắt sách mà tôi mua ủng hộ, có lời đề tặng và chữ ký tác giả, sau đó những cuốn còn lại cô có thể tặng bạn bè ...

-       Anh ơi, thùng Làng Văn thì em đồng ý nếu anh muốn để lại, còn thùng sách quý kia, anh có thể đóng thùng đem theo lên máy bay, chỉ trả thêm chút tiền.

-       Cô ơi, tuổi tôi đã gần 80, nay mai ở nhà con cháu, dễ gì có chỗ thoải mái cho mình làm tủ sách? Hơn nữa, tuổi già bệnh hoạn có thể ập đến bất cứ lúc nào, tấm thân tôi còn không giữ nổi, nói chi giữ sách? Tôi chỉ mang theo khoảng chục cuốn có nhiều kỷ niệm. Mà bây giờ biểu tôi đem mớ sách còn lại đi “recycle” hoặc đem đốt bỏ, vứt bỏ thì thật tình tôi không nỡ, đau lòng tôi lắm cô ơi!

-       Ủa Ủa!!! Cho em được ngắt lời anh nhe? Anh biết đau lòng khi bỏ sách, rồi anh đẩy qua cho em, bộ anh nghĩ em là gỗ đá, không có trái tim, hổng biết đau lòng sao!


Anh cười xòa:

-       Ý tôi không phải vậy, mà vì cô trẻ hơn tôi nhiều tuổi, nhà cô lại rộng thênh thang, nên tôi xin cô nhận lời, coi như tôi năn nỉ cô. Tình yêu đời tôi là bà xã đã ra đi, nay còn lại tình yêu sách báo, tôi không thể giữ chúng được nữa, cô hiểu cho tôi không?

Dĩ nhiên là tôi hiểu lắm, ngậm ngùi cho anh và cho những cuốn sách quý anh từng gìn giữ, bây giờ đành phải buông xuôi, và gửi gấm chúng cho tôi, thì cớ gì tôi lại từ chối?

Anh đã nói thế thì tôi vâng lời cho anh an tâm đi nghỉ dưỡng tuổi già. Buổi tối hôm đó, anh chạy xe mang đến 2 thùng sách, báo. Hai anh em đứng tán dóc chút đỉnh, tôi chúc anh lên đường bình an mạnh khỏe rồi chia tay.

Với thùng Làng Văn, tôi mở ra liếc sơ qua, mấy chục cuốn xếp ngay ngắn, còn khá mới. Hồi tôi đến trại tỵ nạn Thailand, bà chị dâu đã đặt báo Làng Văn cho tôi, mỗi tháng đều đặn báo đến trại. Khi qua định cư Canada, tôi tiếp tục đặt Làng Văn một thời gian nữa mới thôi.  Bây giờ nhìn thùng Làng Văn này, tôi tự hỏi đã có bao giờ anh ấy mở ra xem lại chúng chưa? Bởi tôi cũng đang giữ một số cuốn DVDs ca nhạc của Trung Tâm Asia và Trung Tâm Thúy Nga, những chủ đề đặc sắc như nhạc Phạm Duy, Lam Phương, Nhật Trường, Hoàng Thi Thơ ...với ý định để dành sau này xem lại, nhưng thực tế là bao nhiêu năm qua chúng vẫn nằm trên kệ sách mà tôi chưa hề có dịp xem lần thứ hai. Hiện tại và tương lai còn bao nhiêu việc chưa xong, nhiều cuốn sách chưa đọc, nhiều bài viết chưa hoàn chỉnh, thời gian đâu mà trở về quá khứ xem lại những cuốn DVDs ấy? Mỗi lần vào lau bụi, quét dọn kệ sách, nhìn đống DVDs này, đúng là “bỏ thương vương tội”, tôi thấy mình thiệt có lỗi.



Trên lầu nhà tôi, ngoài ba phòng ngủ, còn có một phòng xem tivi, kế bên đó còn một góc phòng có kệ sách cùng bàn làm việc của ông xã. Còn một góc phòng khác, nhỏ bé, nằm khuất kế bên phòng giặt đồ, là nơi có tủ sách, albums, vài thùng sách báo, là thế giới riêng của tôi. Tuy nhiên, hàng ngày đi qua đi lại cái “cõi riêng” này, tôi ngại phải dừng chân ghé vào nhẩn nha, chỉ khi nào cần vào lấy cuốn sách nào đó, hoặc đến ngày hút bụi, lau chùi, bởi tôi biết, trăm lần như một, hễ tôi ghé vào, ngồi xuống, là y như rằng tôi sẽ bị chôn chân tại nơi này, để rồi tâm tư tôi lãng đãng bởi những miền ký ức, rồi bâng khuâng suốt cả ngày.

Thuở ấy, chưa có youtube, facebook, ebooks, googles nên nhu cầu đọc sách báo là khao khát nồng cháy của người mê sách. Hồi mới qua Canada định cư, tôi tìm đến các thư viện trong thành phố, vào kệ sách Tiếng Việt, mỗi tuần khuân về vài cuốn, đọc say sưa, một hai tuần sau lại đổi truyện khác, chỉ trong vòng vài tháng tôi đọc hết các sách truyện Việt trong thư viện. May mắn là bạn bè tôi còn lại bên Việt Nam chịu khó gửi sách cho tôi theo những người về thăm nhà, cộng thêm những lần tôi qua California vào tiệm sách Tự Lực nổi tiếng khu Bolsa, nên dần dà tôi cũng có được một kệ sách với đủ thể loại và tác giả bốn phương.

 

Thôi thì nhà tôi còn rộng, tôi quyết định để thùng Làng Văn của anh Quang nơi garage, rồi sau này hạ hồi phân giải. Đó là tâm huyết, là trí tuệ của bao nhiêu người trong từng số báo, tôi không nỡ đem ra ngoài rác tái chế một thùng báo như thế. Riêng thùng sách, tôi đem lên trên lầu, ngay kế kệ sách trong “cõi riêng tư” của tôi.

Ngày nay, người ta có thể tìm bất cứ “đầu sách” nào trên mạng, đó là chưa kể các youtube đọc truyện, các ebooks ... nên chẳng còn nhiều người còn thú đam mê cầm cuốn sách, mân mê mở từng trang, thơm mùi giấy mới (hoặc giấy cũ) để rồi chầm chậm bước vào thế giới văn chương đầy quyến rũ. Giờ mà đem sách đi tặng có khi còn bị cho là... “không bình thường”, nên tôi sẽ giữ lại, coi như kỷ niệm mối thâm tình của chúng tôi và vợ chồng anh Quang.

Và tôi cũng vậy, những bận rộn đời thường, youtube, facebook, emails, sinh hoạt nhà thờ, cộng đồng, tôi không còn nhiều thời gian thảnh thơi như trước đây thả hồn theo từng con chữ của những cuốn sách mình yêu thích. Cho nên “cõi riêng” của tôi giống như... viện bảo tàng kỷ niệm, mỗi ngày đi qua, liếc một cái, đôi khi dâng lên chút áy náy, rồi lại nhủ lòng, các “bạn” hãy đợi đấy... chờ tôi về hưu!

.......................................        

Hôm nay, tôi lại có dịp ghé vào “cõi riêng” của tôi để lau dọn, quét bụi. Nhìn thùng sách nằm nơi góc phòng, tôi nhớ anh Quang, không dám mở thùng sách ra, rồi chẳng hiểu sao, lại tha thẩn ngồi xuống ngắm nghía những cuốn albums và tủ sách của riêng mình.

Tôi nhẹ nhàng lấy ra từng cuốn sách, xem tựa đề, để tâm hồn lại lang thang trôi về quá khứ. Mỗi cuốn sách là một kỷ niệm, trang đầu tiên có chữ ký của tôi và ngày tháng năm, nơi chốn, nếu đó là sách tôi mua. Nếu là sách của bạn bè tặng, hoặc của các tác giả thân hữu thì cũng có chữ ký và lời đề tặng trang trọng, ấm áp.

Thú thật, một số cuốn sách trong kệ sách này, tôi vẫn đọc chưa xong, còn dở dang, thậm chí có vài cuốn chưa hề đọc (là những cuốn tác giả trẻ bên Việt Nam mà bạn bè gửi qua). Phần vì tôi còn đi làm, lo chuyện cơm nước nhà cửa, thỉnh thoảng còn viết lách Văn Thơ cho vui nên thực sự không có thời gian rộng rãi. Tôi đã thề hứa (ôi, “biết bao lần em đã hứa”, Vũ nhạc sĩ rành tui quá chừng!), khi về hưu, sẽ đọc tất cả những cuốn sách tôi còn “nợ”.

Cũng như từng cuốn sách là một trời kỷ niệm, thì từng cuốn album, từng tấm hình, cũng chất chứa một trời thương nhớ.

Này đây, vài cuốn albums của thời hiện tại nằm trên kệ sách, còn ở trong cái thùng carton là một đống albums khác. Albums của thời xa xưa khi còn ở Việt Nam tôi đã chụp với bạn bè trong các chuyến đi chơi thời đi học, đi làm, chụp với gia đình người than trong các dịp lễ Tết. Khi đi vượt biên tôi chẳng mang theo tấm hình nào, nhưng suốt mấy chục năm qua, mỗi lần tôi qua Mỹ đến nhà anh chị em ruột, mỗi nhà tôi “xin” lại được vài tấm, gom lại cũng đủ một cuốn album.

Còn album của bốn năm tôi sống ở trại tỵ nạn Thailand, rồi các albums đám cưới của tôi, rồi hình ảnh các con từ khi chúng mới ra đời, theo thời gian lớn lên, các events như sinh nhật, ra trường, những lần gia đình đi du lịch qua Mỹ ... Cũng may là ngày nay, chúng ta đã biết save hình ảnh albums trên máy computer, USBs, chớ không thì chắc phải cần thêm vài cái thùng nữa mới chứa hết.

Tôi lại nhẹ nhàng mở từng cuốn album với tất cả bồi hồi hoài niệm. Tôi có thói quen ghi chú phía sau mỗi tấm hình, có khi viết cả tâm sự kín cả tấm hình, nhưng ít nhất các tấm hình luôn luôn có hai thông tin quan trọng, là ngày tháng năm và nơi chốn chụp tấm hình ấy. Trí nhớ tôi còn dẻo dai lắm, hầu như nhìn tấm hình nào tôi cũng đoán được thời gian và bối cảnh. Tuy vậy, đôi lúc tôi không thể nhớ chính xác, liền lấy tấm hình ra, lật phía sau, đọc những dòng chữ xa xưa của chính mình, bần thần , mỉm cười, suy tư, sao thời gian trôi nhanh quá . Chiếc áo này tôi mặc cho con gái tại tiệc thôi nôi đây mà, tôi còn nhớ rõ, mua ở tiệm GAP, mình vải mềm dịu đong đưa khi con bé chập chững bước đi trên sàn nhà. Kìa là nông trại ngoại ô, chúng tôi đi fieldtrip mừng sinh nhật con trai khi còn tiểu học, hôm ấy trời nắng chang chang, cả nhà dừng lại nơi chiếc xe truck giữa xa lộ mua những giỏ trái cây của farmers mới hái, và cả một chục bắp tươi đem về nấu chè.

Lần lượt từng cuốn album được lật qua, nâng niu, từng kỷ niệm sống lại, bốn mùa Xuân Hạ Thu Đông, để rồi ngẩn ngơ chép miệng, mới ngày nào!

Bên ngoài trời đã về chiều, tôi đã ngồi trong phòng sách này gần hai giờ đồng hồ rồi ư, mà vẫn chẳng sắp xếp dọn dẹp được gì. Tôi liền phone cho ông xã, nhờ chàng trên đường đi làm về ghé mua vài món về ăn tối, với lý do hôm nay tôi “không được khỏe”.

Tôi đứng dậy, bước ra khỏi “cõi riêng” của mình với những cảm xúc không thể gọi tên.

Thế đấy, chúng tôi dọn đến căn nhà này cũng đã chục năm, thùng sách anh Quang “tặng” cũng vài năm rồi, trong khi mọi thứ trong nhà đã gọn gàng ổn định, thì nơi “cõi riêng” này, với những cuốn albums và những cuốn sách (chúng có linh hồn cả đấy), vẫn còn lộn xộn, ngổn ngang, như cõi lòng tơ vò và tâm tư đầy vơi của tôi vậy.

Edmonton, Tháng 9/2024

KIM LOAN

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.