Hôm nay,  

Những Người Ở Lại

10/09/202414:10:00(Xem: 2851)

Chúng tôi đã lớn vượt qua sự tưởng tượng về thế giới để còn có nhau trong đời.


2 girls in blue dress standing on brown field during daytime
Photo by Josue Michel on Unsplash


Năm sáu tuổi, mẹ dắt tôi đến trường. Mẹ dặn phải nhớ đường, vì từ sau con sẽ tự đi học. Từ nhà đến trường là đường thẳng.

Nhưng tôi thường không đi thẳng về nhà mà sẽ la cà đâu đó. Một hôm, tôi rẽ phải vào xóm lạ lúc giữa trưa. Đi một lúc thì lạc mất. Mẹ dặn nếu lạc đường cứ hỏi người lớn chỉ đường đến ngã ba Hiếu Liêm là về được nhà. Nhưng nhà ven đường đóng kín cửa, chắc mọi người ngủ trưa hoặc đi làm rồi.


Trời nắng chang chang. Tôi càng đi thì càng lạc. Mồ hôi vã ra ướt lưng áo đeo cặp. Tóc tai rối bù vì nắng và sợ. Con đường cũng không còn trải đất thẳng thớm nữa, mà lồi lõm, hố cát, đá lớn, ổ gà, cây dại mọc lấn ra, bóng nắng mất dần. Lúc đó không gian mát hơn vì có bóng cây, nhưng nỗi sợ càng lớn vì tôi không thấy bầu trời nữa, bóng râm như con quái vật khổng lồ.

Một con chó to từ đâu xổ ra sủa cắn. Nó cao gần đến lưng tôi, chồm lên là tới mặt. Tôi bị chó cắn một lần năm ngoái và từ đó rất sợ chó. Tôi bỏ chạy. Con chó to dí theo. Lông màu nâu bóng lên dưới nắng, những nhóm cơ vồng lên lao tới phía trước theo cử động. Bỗng nhiên một thằng bé từ đâu cũng lao ra, vừa vung gậy la mắng, vừa xua con chó đi. Con nâu cụp đuôi quay vào bụi cây, hoá ra phía sau là một ngôi nhà.

"Nó hiền lắm, nhưng thấy ai ngoài đường cũng đuổi," thằng bé giới thiệu chó là của bà nội nó. Nó tên Bi, học cùng trường với tôi (cả cái xã chỉ có một trường tiểu học, đứa nào cũng học trường đó).

Đó là cách tôi và Bi quen nhau. Trẻ con không cần nhiều chuẩn mực hay sự đối chiếu để làm bạn. Bi không biết nhà tôi ở đâu nên nó vào hỏi bà nội chỉ đường và xin bà dẫn tôi về nhà. Bà đã già và hơi còng. Bà cho tôi cốc nước rồi đồng ý cho Bi dẫn về. Từ hẻm nhà Bi, đi qua một lạch nước nhỏ, rồi qua khỏi nghĩa địa, rẽ phải là ra đường đất đỏ lớn. Từ đó tôi đã biết lối về nhà. Nhưng hai đứa tôi vừa đi vừa nói gì đó với nhau mà quên bẵng tới cửa nhà tôi lúc nào không biết.

Thỉnh thoảng đi học về Bi hay đi cùng tôi, xong rẽ qua lối nhà nó, chơi trong vườn nhà nội, rồi tôi vòng lại đường lớn về nhà. Ba của Bi đi theo công trình giống ba tôi, nghĩa là đi làm công nhân xây dựng, công trình ở đâu thì theo đó, khoảng vài tuần về nhà một lần. Bi ở với bà nội. Tôi chưa bao giờ thấy mẹ của Bi.

Sau này, Bi bảo lý do tôi hay bị chó cắn vì nhìn một cái là biết tôi sợ chó. Tôi đứng im, lùi lại, hoặc rón rén. Con chó có thể thấy người đứng trước nó sợ hãi ra sao. Tôi sẽ lùi dần đến khi bị sủa, rồi bỏ chạy. Tôi bỏ chạy là chó dí. Bi dắt con Nâu của bà ra, bảo tôi đưa tay ra, để Nâu tự ngửi, nếu nó thích, nó sẽ cho vuốt, rồi vuốt đầu nó, thì nó không cắn. Tôi vừa thò tay ra thì thụt lại ngay vì con Nâu há miệng (theo ý Bi là nó há miệng để thè lưỡi liếm, không có gì sợ). Có lần Bi cầm tay tôi, đặt tay nó bên ngoài, hứa là nếu con Nâu cắn thì chắc chắn sẽ cắn trúng Bi trước, cho tôi yên tâm. Tập luyện tới khi tôi quen luôn con Nâu rồi vẫn còn sợ chó.

Bi nói nếu tôi cứ sợ thì chó càng làm tới, nhưng giờ đã hơn 30 năm sau, tôi vẫn sợ chó, chó vẫn dí tôi, và tôi nhớ lời Bi (sau này được nhiều người nói thêm vào) là con chó có thể đọc vị hành vi của người, chỉ cần nhìn dáng vẻ, chó biết ngay kẻ đối diện sợ nó hay không. Có thể tình bạn cũng vậy, chúng tôi nhìn đứa đối diện, cảm được người đó sẽ trở thành bạn mình, không thực sự cần nhiều diễn giải.

Ở gần nhà, Bi dắt tôi đi chơi ở cái lạch nước to ra thành con suối mùa mưa. Bi dắt tôi đi hái nấm mèo ở cây mục khi mùa mưa tới. Bà nội Bi đập xoài xuống cho tôi mang về. Bi tới nhà tôi chơi xong dắt tôi đi bơi ở sông. Nhưng mẹ tôi cấm tôi xuống sông vì sợ chết đuối. Bi không sợ chết đuối vì ba của Bi nói phải dạy nó biết bơi khi ba đi làm xa nhà không ai trông. Nó đã học bơi rồi bơi khắp mấy bờ sông quanh khu gần đó.

Mỗi khi ra bờ sông, tôi ngồi trên bờ chơi với mớ đồ hàng nổi lên mặt nước. Còn Bi ra bơi với đám trẻ nhà gần bờ sông. Tụi nó thường trèo lên một tảng đá nổi khá xa bờ, xong từ trên đó nhảy xuống kêu "ùm" một tiếng, xem ai nhảy xa nhất là thắng. Hòn đá là chỗ ưa thích của cả xóm biết bơi.

Một chiều cuối tuần, tôi đang ở nhà bán hàng phụ mẹ thì Bi chạy hớt hải tới. Ngoài đường tiếng xôn xao váng lên, tiếng người lớn chạy đổ về bến đò. Tiếng la hét. Bi kéo tay tôi chạy ra sông. Ở bến đò, nhiều chú đã mặc áo phao bơi ra xa, có hai anh ngồi trên đò dùng chèo đẩy theo những người mặc áo phao. Lát sau, họ vớt lên một thân người. Hai anh trên đò kéo cái xác lên, nhỏ cỡ tụi tôi.

Đứng ở bờ sông trên cao, tôi thấy toàn bộ cảnh đó, chợt rùng mình khi nhận ra thân người nằm trên thuyền là thằng Cò, con của bà Thúy, hàng xóm của tôi. Từ sau lưng tôi, bà Thuý và mấy chị gái thằng Cò chạy vụt xuống bến thuyền. Họ vừa chạy vừa khóc. Bà Thúy trượt chân ngã xuống giữa con dốc bê tông. Những cô hàng xóm bên đường chạy ra đỡ bà Thúy lên nhưng bà đã ngất xỉu.

Tôi và Bi đứng nhìn đến khi xe cấp cứu ở xã tới, đưa thằng Cò từ xuồng lên cáng. Trong xe mấy chị gái Cò trèo lên bám chầm lấy em đang nằm với quần áo ướt đẫm. Xe đóng cửa và chạy đi trong tiếng còi hụ. Bi nắm chặt tay tôi, ngón tay cấu vào da thịt. Tôi quay qua nhìn thấy Bi nức nở khóc. Lúc đó tôi mới nhớ ra thằng Cò hay chơi nhảy từ cục đá xuống cùng đám bạn ngoài sông, trong đó có Bi.

Bi và tôi đi về khi trời chạng vạng tối. Nó đi vào nhà ôm lấy bà nội. Còn tôi lững thững quay về nhà một mình trong bóng tối. Ở xóm, người lớn dìu bà Thúy về và tụ tập ở nhà bà để giúp đỡ họ đêm đó. Tôi ăn phần cơm mẹ úp trong lồng bàn rồi đi ngủ. Tối đó mẹ cũng không về nhà vì ở bên nhà bà Thúy. Tôi nằm trong giường, nghe tiếng xe cấp cứu lại hụ còi lên, những giọng nói xôn xao, tiếng rên khóc của người đã mất con vì dòng sông.

Bi không rủ tôi ra sông chơi nữa. Nó chỉ chơi quanh nhà, chạy vào rừng hay lang thang lên rẫy mót ngô về nướng. Nó bảo nó không muốn mất bạn nữa. Nó bảo bà nội nói sông có nhiều xoáy nước, dù có biết bơi đôi khi cũng không tránh được, không nên dắt tôi ra đó chơi vì tôi không biết bơi.

Hai năm sau thì tôi chuyển về thành phố. Bi vẫn ở lại xã cùng bà nội. Chúng tôi không chia tay nhau. Trẻ con tám tuổi không thực sự biết chuyển nhà là không còn ở bên nhau nữa. Tôi vẫn nhớ về Bi như một người bạn đứng từ hòn đá giữa sông nhìn vào bờ xem tôi chơi đồ hàng và bỏ không ra bờ sông vì sợ tôi chết đuối.

Bước vào đời nhau

Tôi là đứa trẻ không biết mở lời kết bạn. Cần con chó tên Nâu dí theo tôi để tôi được quen Bi. Những người bạn đến và ở bên tôi trong những năm tháng tuyệt vời hay buồn bã của cuộc sống. Họ bước vào thế giới của tôi tự nhiên vì lúc đó chúng tôi cần nhau, vì họ nghĩ cần phải cứu tôi khỏi chuyện gì đó, hoặc vì không gian đủ rộng cho mấy đứa tìm thấy niềm vui cạnh nhau.

Sau này, mỗi khi muốn kết bạn với ai, tôi thường nghĩ về Bi, về lúc Bi cầm tay tôi cho con Nâu ngửi với sự trấn an vô tư của trẻ con thời khó khăn nhất. Chúng tôi không có đồ chơi, không có không gian lớp học năng khiếu, thi tài, không có những cuộc chạy đua đồ đạc mới hay chôm đồ đạc của nhau trong lớp học. Chúng tôi chỉ có bàn tay, con Nâu, đường đất đỏ về nhà và một bờ sông nguy hiểm.

Chúng tôi tỏ ra yếu đuối trước mặt nhau. Tôi ré lên vì bị chó đuổi. Bi đứng khóc vì thằng Cò chết đuối. Chúng tôi không biết chế nhạo nhau, cũng không biết yếu đuối là điều ta thường giấu ở trong góc nhà không chia sẻ với ai.

Món quà mà Bi dành cho tôi: bước vào cuộc sống của nhau bằng sự chăm sóc, yếu đuối và thành thật, cũng là điều đã tạo ra những tình bạn kéo dài nhiều năm khi tôi lớn lên trong đời.

Một người bạn tôi làm ở công ty từng gói một chai lăn khử mùi vào hộp giấy xong tặng tôi, nói thật tế nhị là: "tớ nghĩ cậu nên dùng thử, cậu sẽ thấy dễ chịu hơn" - thay vì nói "ê cậu hôi nách quá vui lòng xài lăn khử mùi đừng làm phiền thiên hạ."


Những điều như vậy đồng nghiệp không bao giờ nói. Sau 5 năm đi làm không ai nói với tôi điều đó. Người xung quanh chịu đựng tôi, một số người bằng tuổi nói xấu sau lưng, chế nhạo sự “mất vệ sinh” mà tôi không biết. Họ từ chối lại gần, từ chối kết thân, hoặc coi như là chịu đựng mùi hôi công cộng. Nhưng bạn đã đến và chỉ dẫn tôi về điều xảy ra với cơ thể mình bằng cách dịu dàng và đơn giản. Khi một người chọn cách dũng cảm chăm sóc, họ chấp nhận bạn là ai, họ kiên nhẫn vì bạn, và tạo ra không gian để cả hai cùng sống. Tôi không dự đoán gì về tình bạn với cô đồng nghiệp đó khi nhận chai lăn khử mùi. Nhưng cô đã trở thành bạn hơn chục năm sau đó trong cuộc sống của tôi. Cũng như Bi cầm tay tôi để đoan chắc con Nâu không cắn, cô đi một quãng đường dài giúp tôi học săn sóc bản thân, học cách để trở nên gọn gàng hơn với cơ thể mình, thứ mà đôi khi chính gia đình không ai chỉ dẫn.

Tôi tin rằng tình bạn đã tạo hình cuộc sống của mình. Ngoài những thời gian bi quan về sức khoẻ hay không gian chính trị, tôi luôn cảm thấy sự tồn tại của mình trọn vẹn. Tôi tín thác mình cho đời sống. Niềm vui được ở bên nhau. Cảm giác săn sóc cho nhau tạo ra những hạnh phúc khó hiểu. Có lần, khi tôi bị người yêu đá, bạn tôi nghe xong đã bay sang Bangkok, nơi tôi ở khi đó. Nó dắt tôi đi khắp nơi, nói những điều linh tinh đùa giỡn. Nó ngồi ngoài vỉa hè nghe tôi kể bị đá thế nào, làm sao để sống tiếp. Xong đâu đó, nó về lại Sài Gòn, để tôi tiếp tục suy nghĩ và giải quyết mối tình tồi tệ của mình.

Bạn tôi không hề có ý định giải quyết dùm một sự lằng nhằng cảm xúc. Không ai làm vậy. Kiểu như sự rối ren hay khổ sở tôi trải qua phải do tôi quyết định lấy. Họ chỉ có mặt, ngồi trong nhà cùng nhau, đi bộ bên bờ kênh nhìn tôi khóc hổn hển, hoặc đứng trong nhà nấu ăn, gọi tôi ra ăn sau những giờ kiệt sức.

Những buổi tối nấu cơm ăn cùng và nói về những nỗi sợ của bản thân, cảm giác bất hạnh khó diễn tả thành lời dần rõ ràng hơn. Khi trời sao, chúng tôi nằm ngủ trên đồi và nói về mất mát xây xước trong sự sống của mình. Tôi và bạn bè cùng nhau sống mà không cảm thấy cô độc. Hay còn gì nữa để chúng tôi tiếp tục những mối quan hệ không thực sự có lợi ích gì cho công việc hay tiền bạc?

Bạn để làm gì?

Hồi vào đại học thỉnh thoảng tôi ghé qua những giảng đường nơi diễn giả to tiếng nói về ích lợi của networking, sức mạnh của tình bạn, kỹ năng để networking. Đó là thời điểm tuổi tác chúng tôi ráo riết kết bạn, làm quen, có bạn làm ăn, tìm kiếm đặc ân của những người coi mình là bạn, để có thể hãnh diện giải quyết việc gì đó bằng quan hệ bạn bè thay vì công việc. Tình bạn có thể làm ra tiền. Hãy chỉ kết bạn với người thành công. Hãy đưa ta đến tầng lớp cao bằng cách kết bạn với tầng lớp cao. Vật chất hoá tình bạn là tuyên ngôn mượt mà dễ sử dụng. Bạn bè không phải cha mẹ, anh em, không có gì đáng lo nếu ta phải lợi dụng nó. Bạn bè không phải vợ/chồng/người yêu, tận dụng không hề mang tiếng sở khanh hay đào mỏ. Công thức là, nếu bạn có 100 người bạn thành công, bạn chắc chắn sẽ thành công.


Nhưng ở tuổi đó, tôi vẫn còn nhớ chuyện Bi cầm tay tôi dạy để con Nâu liếm tay. Tình bạn tràn ngập trái tim về điều tốt đẹp tôi được lớn lên cùng. Tôi không nghĩ ra cách nào quy 100 đứa bạn thành công ra tiền.

Thực ra tôi không có 100 người bạn. Tôi đọc sách và biết rằng sau 30 tuổi mỗi người sẽ bớt kết bạn, sẽ thu về các mối quan hệ gia đình hay công việc. Đến khoảng 50 hoặc 60 tuổi, nếu xảy ra biến cố ly hôn hay bạn đời mất hoặc con cái vào đại học, người lớn thường trải qua giai đoạn đơn côi kiệt quệ vì không có bạn nào bên họ nữa. Nhiều người di chuyển qua hướng khác. Những mối quan hệ chỉ còn là công việc. Người bạn mất đi. Sự thật đáng buồn là tôi sẽ không còn dễ dàng kết bạn như hồi Bi đuổi chó cho tôi, và số lượng những người bạn cũng sẽ giảm dần khi ta không còn thấy vui khi ở bên nhau. Cuộc đời sẽ hoá thành gì nếu ta không có bạn?

Một buổi tối khi tôi khoảng 28 tuổi, tôi và vài người bạn cùng đi ăn tối, một truyền thống chúng tôi cố gắng duy trì khi đã đi làm. Trong suốt buổi hôm đó, một người bạn thường xuyên hỏi tất cả những người khác có quen anh A, chị B, anh C mảng này không, giới thiệu đi, xong bạn dùng hai tiếng ăn tối để nói sếp bạn giỏi, sếp khác ngu dốt.

Hết bữa tối ra về, tôi chợt nhớ ra mình không kịp hỏi một đứa vừa sinh con là em bé của nó thế nào. Tôi cũng không hỏi hai đứa còn lại chuyển việc có ổn không. Một khoảng trống hỗng ra trong đầu tôi, những người bạn thân trở thành chân dung rỗng vì tôi không còn hỏi họ đang sống và đã sống thế nào.

Trên taxi trở về nhà, tôi quyết định sẽ không đi ăn tối như vậy nữa. Tôi không thể coi bạn bè là chỗ để networking, nơi chân dung của họ bị đơn giản hóa thành con ốc trong cỗ máy thành công tuổi trẻ, là nấc thang để vươn lên những vị trí mình ao ước. Tôi muốn trở về nhà và có thể tưởng tượng ra chân dung và gương mặt của họ, đã trải qua đời sống và sự vất vả cùng nhau.

Chúng ta có cần bạn không?

Sau 30 tuổi, tôi trở nên ý thức về tình bạn. Tôi không còn thụ động như hồi Bi phải giải cứu tôi khỏi con chó nữa. Tôi phát hiện ra tình bạn đã giúp tôi trở thành một phụ nữ độc lập. Các bạn sẵn sàng chia sẻ hành trình họ trải qua trong cuộc sống, cảm xúc, mâu thuẫn gia đình. Họ nói về điều ít người muốn nói. Nhờ họ, cuộc sống trở thành sự trọn vẹn mà tôi không phải vật lộn với cảm giác trống vắng, đơn độc hoặc bị bỏ rơi.

Một lần ở Mexico, tôi sống ở một nhà trọ vì dịch Covid-19 kéo dài. Khi đang nấu ăn thì có một bạn đi ngang. Cậu hỏi tôi nấu gì. Sau đó ngồi lại chơi. Hoá ra cậu học về triết học, quê ở một hòn đảo nhỏ xa xôi, năm 35 tuổi cậu quyết định sẽ đi lang thang khắp nơi để hiểu về những điều cậu học trong nghiên cứu triết học. Đi từ Ecuador tới Mexico thì toàn thế giới đóng cửa nên cậu cũng ở lại gần nơi tôi sống. Sau đó, cậu đã giảng cho tôi nghe về những gì cậu học, suy nghĩ về thế giới xung quanh. Suốt một tháng, tôi đã được đối thoại với một người có niềm đam mê với triết học và yêu cuộc sống tha thiết. Cậu tiếp tục đi khắp thế giới sau đó, và đến Indonesia thăm tôi khi tôi về nhà.

Tôi đã ngừng lo lắng và cho bản thân mình trò chuyện với người lạ, có thêm bạn mới, dù họ không cùng sở thích, không làm việc cùng mình, không thực sự liên quan hay ảnh hưởng gì đến đời sống hàng ngày mình trải qua. Họ xuất hiện một lúc nào đó, sống cạnh tôi, chia sẻ mỗi ngày, mỗi bình minh, món ăn mới, nói về sự thay đổi của thế giới họ sống. Càng lúc tôi càng thấy rõ hơn chân dung của những vùng đất xa lạ mà tôi thường có định kiến hoặc chỉ nghe qua sách vở.

Gần đây, một người học cùng lớp thạc sĩ với tôi đã lái xe 8 giờ đến chỗ tôi và cùng tôi lướt sóng hai ngày, trước khi bạn trở về lại nhà để vào dạy học kỳ mới. Bạn kể rằng gia đình bạn trải qua một chuyện rất buồn, người bạn quen thân của gia đình đã qua đời vì sốc thuốc [ma tuý], và cả nhà bạn rơi vào khủng hoảng.

Khi bạn tạm biệt và rời đi, tôi không biết khi nào sẽ gặp lại. Tôi không biết bạn có vượt qua nỗi đau mất người bạn đó không. Tôi không biết chúng tôi đã chia sẻ những gì với nhau, vài bữa ăn, vài buổi tập lướt sóng. Bạn khóc giữa biển. Tim tôi thắt lại. Tôi bảo bạn hãy yên tâm, người đó sẽ biết bạn thương bao nhiêu, người sẽ yên tâm ra đi.

Rất nhiều năm tháng, tôi luôn muốn mình vững chãi bước trong đời như một cái cây. Nhưng rồi tôi nhận ra mình ước được đứng bên cạnh những “bạn cây” khác, đi qua mọi rối ren và bất an trong đời. Tôi được làm người yếu đuối, lo sợ, được dặn dò hãy yên tâm rồi chúng ta sẽ làm được mọi điều.

Tôi nhìn vào mắt bạn mình, biết chúng tôi chia sẻ quá khứ và tương lai cho nhau. Chúng tôi không đổi bạn thành tiền hay thành networking. Chúng tôi không sợ trở thành những kẻ thành công không có bạn và trái tim trống rỗng.

Khải Đơn

Nguồn: fbclid=IwY2xjawFNlrRleHRuA2FlbQIxMAABHUt0ioVrc4rbZn7534IaVV_AZmTx6EFLVVMtEiDuYy3nbGrPjpg2he0S0A_aem_AHtbgSNN5_HlYedXpwg7ng

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.