Hôm nay,  

Kamala Harris: Những Áp Lực Người Đa Sắc Tộc Thường Phải Đối Mặt

25/10/202400:00:00(Xem: 2358)

Harris
Phó Tổng thống Kamala Harris, ứng viên Tổng thống của Đảng Dân chủ, thường xuyên nhận được những câu hỏi (hay thậm chí là bị chất vấn) về căn tính đa sắc tộc của mình. (Nguồn: Chụp lại từ YouTube)

Đôi khi, nhiều người sẽ cảm thấy áp lực vì bị ép buộc phải chọn một căn tính, một bản dạng (identity) thay vì được sống với tất cả các bản sắc thuộc về bản thân. Kamala Harris là một thí dụ dễ hiểu cho tình cảnh phức tạp của những người mang dòng máu đa sắc tộc.
 
Bà thường bị hỏi về căn tính da đen (Black identity) của mình (dù bà cũng có gốc gác Ấn Độ). Khi trả lời về vấn đề này, Harris khẳng định rõ ràng rằng bà biết rất rõ về bản thân mình: “Tôi biết rõ mình là ai, nếu ai đó không hiểu được điều này, thì họ cần phải tự tìm cách để hiểu.
 
Trong hội nghị của Hội Nhà báo Da đen Quốc gia (National Association of Black Journalists, NABJ) vào tháng 7/2024, cựu Tổng thống Donald Trump đã đặt câu hỏi về căn tính của Harris: “Rồi thì bả là người Ấn Độ hay người da đen vậy?
 
Câu hỏi này cho thấy cách nhìn thiển cận và suy nghĩ hẹp hỏi về căn tính, buộc người ta phải lựa chọn một căn tính duy nhất. Là một học giả chuyên nghiên cứu về xã hội dựa trên tư tưởng của các nhà trí thức da đen, Giảng sư về Giáo dục Đại học Wilson K. Okello (và là Giám đốc của Black Study in Education Lab, Penn State) nhấn mạnh rằng căn tính không chỉ dựa vào một quyết định đơn lẻ, mà là sự tổng hòa của nhiều yếu tố, bao gồm môi trường sống và quá trình xã hội hóa (socialization).
 
Hành trình của Harris
 
Trong cuốn tự truyện “The Truths We Hold,” Harris kể lại rằng cha mẹ bà, Donald Harris và Shyamala Gopalan, đã gặp nhau tại Đại học California, Berkeley vào thập niên 1960. Họ đến với nhau qua các phong trào chính trị cấp tiến của cộng đồng trí thức da đen, tìm thấy sự đồng điệu trong tư tưởng và các giá trị chung. Họ cùng tham gia vào các nhóm nghiên cứu và sau đó là Hội Afro-American (Người Mỹ gốc Phi), cùng đấu tranh cho dân quyền và bình đẳng chủng tộc.
 
Harris vẫn thường nhận mình vừa là người Mỹ gốc Phi và cũng không hề chối bỏ gốc Á của mình. Tại Đại hội toàn quốc Đảng Dân chủ, bà đã nhắc lại niềm tự hào về xuất thân đa chủng tộc và cách mà những giá trị ấy đã hình thành nên con người bà.
 
Trong tự truyện, Harris chia sẻ rằng mẹ bà biết rằng nhiều người có thể sẽ nhìn nhận bà và em gái bà, Maya, như những người da đen. Vì vậy, mẹ của Harris quyết tâm nuôi dạy hai chị em bà trở thành những phụ nữ da đen mạnh mẽ và tự tin.
 
Harris đã chọn học tại Đại học Howard, trường đại học lịch sử dành cho người da đen, và gia nhập hội nữ sinh Alpha Kappa Alpha. Bà cũng nhấn mạnh rằng từ nhỏ cha mẹ đã dạy cho bà những giá trị như tinh thần làm việc chăm chỉ và công bằng xã hội.
 
Căn tính có tính phức tạp, có thể thay đổi, và đa chiều
 
Mỗi người có thể mang nhiều căn tính, bản sắc khác nhau dựa trên chủng tộc, phái tính, văn hóa và giai cấp xã hội cùng với nhiều yếu tố khác. Những khía cạnh này không thể tách rời nhau, mà ngược lại, chúng kết hợp và ảnh hưởng lẫn nhau. Thí dụ, một người có thể vừa là người da đen, vừa là phụ nữ, vừa là người đồng tính.
 
Những yếu tố này không tồn tại độc lập mà bổ sung, ảnh hưởng lẫn nhau, tạo ra một bản sắc độc đáo của từng cá nhân. Hơn nữa, căn tính của một người không phải là điều cố định, bất biến mà luôn thay đổi và tiến bộ. Bởi vì niềm tin và giá trị của mỗi người có thể thay đổi theo thời gian, và cách họ nhìn nhận, định nghĩa về bản thân cũng sẽ thay đổi theo.
 
Như vậy, căn tính được hình thành từ bối cảnh cuộc sống và lựa chọn cá nhân. Việc xác định căn tính không chỉ đơn thuần là tự tuyên bố là Ta là ai, mà còn là cách ta muốn sống và thể hiện bản thân trong cuộc đời, xã hội. Đó là một quá trình phức tạp đòi hỏi chúng ta phải đưa ra những lựa chọn và vượt qua các thách thức xã hội, thí dụ như một người có thể quyết định chấp nhận cả hai căn tính về chủng tộc và phái tính tính, bất chấp những áp lực rất lớn từ xã hội muốn họ chỉ được chọn một.
 
Việc Kamala Harris chấp nhận và tự hào về căn tính đa sắc tộc của mình là thành quả tốt đẹp của những điều mà bà học được từ cha mẹ và môi trường sống của mình.
 
Bảo vệ căn tính trước áp lực xã hội
 
Trong suốt lịch sử, những căn tính phức tạp thường không được cho là phù hợp với các chuẩn mực xã hội, xuất phát từ nỗi sợ rằng việc thừa nhận những căn tính phức tạp có thể gây nguy hiểm cho sự “thuần khiết chủng tộc” của người da trắng và các đặc quyền liên quan đến điều đó. Vì vậy, khi Trump đặt câu hỏi về căn tính chủng tộc của Kamala Harris, đó là một lời nhắc nhở về quan niệm lâu đời rằng mọi người thường bị ép buộc phải chọn một căn tính duy nhất.
 
Một thí dụ có thể nhắc đến là “quy tắc một giọt máu” (one-drop rule) tại Hoa Kỳ, tức là chỉ cần trong người có mang chút gốc gác (dòng máu) không phải gốc da trắng thì sẽ bị xếp vào nhóm thiểu số (không phải da trắng ‘chính gốc,’ ‘chính tông’). Quy tắc này xuất phát từ một đạo luật ở Virginia vào năm 1662, nhằm củng cố sự phân chia ranh giới chủng tộc nghiêm ngặt.
 
Suy nghĩ rằng căn tính có thể được xác định chỉ dựa vào một yếu tố, chẳng hạn như chủng tộc, là một quan niệm sai lầm, vì căn tính có thể thay đổi theo thời gian. Kamala Harris là người mang cả dòng máu Nam Á và gốc da đen, và bà hoàn toàn có quyền tự xác định căn tính của mình. Bất kỳ ai chất vấn về vấn đề này đều không thật sự xuất phát từ mong muốn chân thành tìm hiểu để cho biết, mà có thể chỉ là nhằm mục đích làm dấy lên những hoài nghi, hòng gây chia rẽ mọi người.

Nguyên Hòa biên dịch 
Nguồn: “Kamala Harris illustrates how complex identity is − and the pressure many multiracial people feel to put themselves in one ‘box’” được đăng trên trang TheConversation.com.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở Hoa Kỳ, khi nghe đến cụm từ “giáo dục tổng quát,” người ta thường hình dung về những khóa học nhập môn trong các lĩnh vực nghệ thuật, nhân văn, khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và toán học. Tùy vào mỗi trường, chương trình này có thể mang những cái tên khác nhau như “chương trình căn bản” (core curriculum) hay “các môn học bắt buộc” (distribution requirements). Ngoài ra, chương trình này đôi khi còn có một tên gọi khác là “giáo dục khai phóng” (liberal education). Hội các trường Cao đẳng và Đại học Hoa Kỳ (American Association of Colleges and Universities, AACU) mô tả đây là chương trình giúp bồi dưỡng “tinh thần trách nhiệm xã hội, cùng với các kỹ năng trí tuệ và thực tiễn vững vàng có thể vận dụng linh hoạt.”
Trong nhiều năm kể từ khi Jeffrey Epstein được phát hiện chết trong phòng giam tại Metropolitan Correctional Center (MCC), New York, giới chức liên bang luôn khẳng định rằng cái chết này là một vụ tự sát. Tuy nhiên, một cuộc điều tra độc lập do CBS News thực hiện đã phơi bày hàng loạt mâu thuẫn giữa các tuyên bố của chính phủ và những gì thực sự hiện ra trong đoạn phim giám sát vừa được công bố.
Cuối mùa Hè năm 1955, Till-Mobley tiễn con trai của bà, Emmett Till 14 tuổi lên một chuyến tàu từ Chicago đến thăm chú và các anh em họ của Emmett ở quê hương Mississippi của bà. Giống như những phụ nữ và đàn ông da đen nói với con cái họ về việc chú ý các điểm dừng giao thông và các cuộc chạm trán khác với cảnh sát, Till-Mobley đã căn dặn Emmett rất kỹ. Bà cho cậu biết cậu đang đi đến một nơi mà an toàn phụ thuộc vào khả năng kiềm chế sự bốc đồng, tính cách không khuất phục của cậu với người da trắng. Linh cảm của người mẹ mang đến trong lòng bà nỗi bất an không giải thích được. Bà đưa cho Emmett chiếc nhẫn bạc của ông Louis Till, cha của cậu. Chiếc nhẫn khắc chữ L.T.
“Đi về Miền Nam, miền hương thơm bông lúa tràn ngập đầy đồng; Đi về Miền Nam, miền xinh tươi đất rộng cùng chung nguồn sống” Và cứ như thế, với tiếng hát trong tâm tưởng, từng đoàn người gồng gánh ra đi. Họ đi về hướng Nam giống như cha ông của mình từ bao nhiêu thế kỷ trước. Bây giờ lại còn một động lực mới và mãnh liệt khác, đó là đi tìm tự do: ‘chúng tôi muốn sống!’, như tên gọi một cuốn phim nổi tiếng của đồng bào di cư sau này. Cuối tháng 6, dù hiệp định đình chiến chưa ký kết nhưng quân đội Pháp và Quốc gia đã rút lui khỏi nhiều địa điểm ở đồng bằng Bắc Việt nên nhiều người bắt đầu di tản về các đô thị, đặc biệt là Hải phòng.
Cõi này ngày càng bất an! Tình trạng hâm nóng toàn cầu đã dẫn tới nhiều thảm họa như bão lụt, hạn hán, mực nước biển dâng cao, dịch bệnh, mất mùa, đói khát lầm than. Chiến tranh thù hận ngày càng hung bạo đã làm cho hàng triệu người thương vong, nhà cửa ruộng vườn bị phá hoại. Các chế độ độc tài, quân phiệt, và nạn kỳ thị sắc tộc đã thẳng tay đàn áp dân lành. Tất cả những điều trên đã dẫn đến thảm trạng bỏ nước đi của hàng triệu người trên thế giới! Theo Population Division of the United Nations Department of Economic and Social Affairs (UNDESA), năm 2024 có tới 304 triệu di dân trên toàn cầu, là một con số tăng gần gấp đôi kể từ năm 1990, khi lúc đó có 154 triệu di dân trên thế giới. Đó là 3.7% tổng dân số địa cầu. Theo Cơ Quan Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, tính tới cuối năm 2024, có 43.7 triệu người tị nạn, gồm 6 triệu người tị nạn từ Palestine và 8 triệu người xin được nhận vào quy chế tị nạn trên toàn cầu.
Trong số người Việt, thế hệ thứ nhất có 29% học xong cử nhân hay cao hơn. Thế hệ sinh ra lớn lên tại Hoa Kỳ con số này là 59%. Như thế có thể lý giải là phụ huynh không có cơ hội học cao nhưng khuyến khích con theo đuổi đường học vấn cho tương lai.
Khi các chuyên gia quan ngại về mối quan hệ của giới trẻ với thông tin trực tuyến, họ thường cho rằng giới trẻ tuổi không hiểu biết về phương tiện truyền thông như những người lớn tuổi hơn. Nhưng công trình nghiên cứu dân tộc học do Jigsaw – cơ sở công nghệ của Google - thực hiện lại tiết lộ một thực tế phức tạp và tinh tế hơn: Thế hệ Z, thường được hiểu là những người sinh sau năm 1997 và trước năm 2012, đã phát triển các chiến lược khác biệt rõ rệt để đánh giá thông tin trực tuyến, những chiến lược sẽ khiến bất kỳ ai trên 30 tuổi trở nên bối rối. Họ không tiếp thu thông tin như những người lớn tuổi hơn bằng cách đầu tiên đọc tiêu đề và sau đó là nội dung.
Người Việt Nam không ai xa lạ với từ ‘Gulag’ - trại tù lao động khổ sai khét tiếng của Liên Bang Xô Viết. Ước tính trong khoảng hai thập niên từ 1930-1953, nơi đây giam giữ khoảng 4 triệu tù nhân; 1.5 triệu đã chết trong tù hay sau khi được thả một thời gian ngắn. Gulag từng được xem là địa ngục trần gian, là biểu tượng cho sự tàn bạo của nhà tù cộng sản. Trong những ngày cuối tháng 6, khi mà người dân Mỹ chuẩn bị pháo hoa đón mừng Lễ Độc Lập, cái tên Gulag được sử dụng khi nói đến một nhà tù mới được hình thành ở Florida. Nhà tù này có tên gọi là Alligator Alcatraz. Trong một bài viết được đăng trên trang mạng Amrican Community Media ngày 30/06/2025, nhà báo Laszlo Bartus đã cảnh báo rằng nó sẽ là nhà tù vô nhân đạo nhất thế giới.
Trong hơn bảy mươi năm qua, quan hệ giữa Hoa Kỳ và Iran đã trải qua nhiều bước ngoặt – từ một liên minh chiến lược thời Chiến tranh Lạnh, đến một trong những nước đối đầu gay gắt và kéo dài nhất của thời đại hậu thuộc địa. Bản tóm lược dưới đây ghi lại những cột mốc chính từ năm 1953 đến 2025, nhằm cung cấp một cái nhìn toàn diện về diễn biến phức tạp của quan hệ Hoa Kỳ–Iran trong bối cảnh biến động địa chính trị toàn cầu.
Tháng 5 vừa qua, một chuyến bay từ Johannesburg, Nam Phi đã đáp xuống phi trường Quốc tế Dulles, Hoa Kỳ. Trên phi cơ là khoảng 50 công dân Nam Phi da trắng thuộc cộng đồng Afrikaner. Những người này cho biết sinh kế của họ đang bị đe dọa nghiêm trọng do xã hội ngày càng “kỳ thị người da trắng.” Cách mô tả tình hình Nam Phi như vậy ngay lập tức nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ từ các nhà bình luận cánh hữu có ảnh hưởng ở Mỹ như Tucker Carlson, Charlie Kirk, và Stephen Miller.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.