Hôm nay,  

Dịch thơ, giữa dở và hay

22/11/202400:00:00(Xem: 1553)
Capture

…một tác giả tài danh, trong một tác phẩm đỉnh cao, cũng có lúc dễ dãi với chữ, với thơ và, do đó, cái khó của người dịch là, trong ngôn ngữ khác, cũng phải truyền đạt cho được sự lạc chữ hay mất thần đó. 

 

Dịch thơ, nói theo Bùi Giáng, là “điều khảm kha nhất” và đó phải là thơ hay bởi, trừ những ngoại lệ đặc biệt, chẳng dịch giả nào phí thì giờ với thơ dở. [1] Sự “khảm kha”, như thế, phải thuộc về cái nghệ thuật chuyển đạt, sao cho giữ được hồn cốt làm nên cái hay của bài thơ trong một ngôn ngữ khác.
 
Tuy nhiên nhà thơ Chế Lan Viên, trong “Sổ tay thơ”, nhận xét:
 
Thơ dở không dịch được
Thơ hay như người đẹp, ở đâu, đi đâu cũng lấy được chồng.
 
nên, theo logic này, dịch thơ dở còn “khảm kha hơn” việc dịch thơ hay, ngàn vạn lần.
 
“Khảm kha hơn” vì sự bất khả: “thơ dở không dịch được”.
 
Và “khảm kha hơn” do phận “ế” so với thơ hay.
 
Nếu “thơ hay” cũng như người đẹp “ở đâu đi đâu cũng lấy được chồng”, thì phần số của “thơ dở”, như là một cô gái xấu, sẽ rất là long đong một khi dạt đến những “bến” ngôn ngữ khác. Thơ hay, có lưu lạc đến vùng văn hóa khác, dẫu không nguyên vẹn thì ít nhiều vẫn lưu lại được vài nét “xuân sắc” để thu hút người đọc mới, nghĩa là kiếm chồng xứ lạ. Thơ dở thì không may mắn thế, nếu không nói là… vô phương!
 
Nhưng thơ dở thì chán vạn, cả triệu và đâu phải tất cả đều lọt mắt các dịch giả? Không kể đến thứ thơ chỉ dịch để tâng công, để kiếm bổng lộc, nói cho gọn là để nịnh như thơ lãnh tụ, thơ quan trên; thơ dở mà được dịch thì phải là thơ đáng đọc hay cần phải đọc.
 
Thơ đó có thể dở do tác giả... đánh mất chính mình: một tác giả tài danh, trong một tác phẩm đỉnh cao, cũng có lúc dễ dãi với chữ, với thơ và, do đó, cái khó của người dịch là, trong ngôn ngữ khác, cũng phải truyền đạt cho được sự lạc chữ hay mất thần đó.
 
 
Cũng có thể là thơ dở theo quan niệm thẩm mỹ, như bài thơ “Con Cóc”. Bao thế hệ đã xem đó là biểu trưng của thơ dở thế nhưng, theo nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc, đó lại là một bài thơ hay. Diễn đạt cho gọn thì, khi “Con Cóc” là đỉnh cao của thơ dở trong cách cảm thụ văn chương đã lỗi thời thì, qua một cuộc đảo chính mỹ học, bài thơ sẽ ngời ngời ánh sáng thẩm mỹ mới, nghĩa là … hay!
 
 
Hoặc có thể thơ chưa đạt đến mức tinh hoa của ngôn ngữ nhưng lại là tác phẩm biểu trưng cho một thời kỳ lịch sử, một giai đoạn hay một vùng miền văn học.
 
Thí dụ bài thơ “Tình Già” của Phan Khôi. Đây không phải là bài thơ hay, nhưng nếu muốn giới thiệu lịch sử phát triển của Thơ Việt Nam với người ngoài, tất nhiên phải dịch bài thơ được xem là phát pháo đầu tiên của phong trào Thơ Mới. Hay những vần thơ thật thà trong Lục Vân Tiên, của Nguyễn Đình Chiểu, như là biểu trưng của văn học miền Nam, một thời.

Thật thà là đức tính của con người trong mối quan hệ xã hội tuy nhiên, trong nghệ thuật, có khi, lại là điểm yếu. Trong Hồi ký song đôi, Huy Cận kể chuyện ông cậu mình bỏ ra đến mấy năm trời để học chơi đàn nguyệt từ một tay đờn điêu luyện, chuyên chơi nhạc chầu văn hay hầu đò, thế nhưng, bất kể bao nhiêu công sức, thời gian và đam mê bỏ ra, tiếng đàn ông cậu vẫn chưa làm lay được lòng ai, vẫn “không có nhụy” mà lý do là, theo nhận xét của ông thầy, “tiếng đàn còn thật quá”![2]
 
Nhưng làm sao để truyền đạt những “phong cách” như thế trong một ngôn ngữ khác? Nghệ thuật này có giống với nghệ thuật diễn tả phụ nữ không đẹp, như khi Vũ Trọng Phụng tả chị Doãn hay Nam Cao tả Thị Nỡ? Nếu hai nhà văn này tả sự không đẹp một cách tài tình thì, khi dịch một bài thơ không hay, một dịch giả tài hoa phải truyền đạt sao cho được thần thái của cái sự không hay đó?
 
Lấy thí dụ sự thật thà chữ nghĩa trong Lục Vân Tiên, từ cảnh đối đáp giữa người đẹp Nguyệt Nga và đấng anh hùng:
 
“Đưa trâm chàng đã làm ngơ,
“Thiếp xin đưa một bài thơ giã từ.”
Vân Tiên ngó lại rằng: “Ừ!
Làm thơ cho kịp bấy chừ chớ lâu
 
Chẳng oai phong theo kiểu lẫm liệt, sang trọng đã đành, bậc anh hùng thậm chí còn ngờ nghệch khi “ngó lại rằng: ‘Ừ!’’. Đến lúc chuyển vai “văn nhân”, khen người đẹp làm thơ xuôi lọt dưới áp lực thời gian, nhân vật này trông còn... chán hơn nữa:
 
“Thơ rồi này thiếp xin dâng,
“Ngửa trông lượng rộng văn nhân thể nào?”
Vân Tiên xem thấy ngạt ngào,
Ai dè sức gái tài cao bực nầy.
Đã mau mà lại thêm hay...
 
Toàn là việc khó cả, từ việc truyền đạt cho được cách xã giao thật thà của nhân vật, đến quan niệm thật thà về thơ “Đã mau mà lại thêm hay”. Nghĩa là khó nhưng vẫn chưa là gì so với việc truyền đạt cái thần trong sự dở của một câu thơ lạc thần, giữa một rừng thơ hay.
 
Câu thơ dở, trong ngữ cảnh đặc biệt của một tác phẩm đỉnh cao của một tác giả tài danh, sẽ có một thần thái đặc biệt. Chuyển dịch thần thái của sự dở này sang một ngôn ngữ khác, khiến người đọc phải cảm được điều đó, cũng chẳng khác gì phải làm sao để một cô gái xấu lấy được chồng mà không phải son phấn màu mè, đừng nói là giải phẩu thầm mỹ.
 
Như câu thơ có lẽ là dở nhất trong Truyện Kiều mà tôi từng bàn đến trong bài “Phải học Tú Bà”:
 
 
“… đến cả Nguyễn Du cũng đã một thoáng đánh mất chính mình trong cái cảnh đoàn tụ này. So với cảnh chia tay đau đớn vô cùng đẹp đẽ trong ngôn ngữ:
 
Đoạn trường thay lúc phân kỳ!
Vó câu khấp khểnh bóng xe gập ghềnh.
 
thì, cũng trên khía cạnh ngôn ngữ, cái cảnh chuẩn bị đoàn tụ trông nhếch nhác, vô duyên thế nào:
 
Cùng nhau lạy tạ Giác Duyên,
Bộ hành một lũ theo liền một khi
 
Truyện Kiều là cả một sự chắt lọc ngôn ngữ mà, nói theo Phan Kế Bính, là “không có một tiếng nào là tiếng đục, không một câu nào là câu non” thế nhưng cái câu trên, câu tám, nghe cũng đục đục thế nào. Nó quá mức thật thà, thật thà đến ngô nghê, y như cái cảnh ngô nghê lúc Lục Vân Tiên hối người đẹp làm thơ, “Vân Tiên ngó lại rằng Ừ! / Làm thơ cho kịp bấy chừ chớ lâu”.
 
“Bộ hành một lũ” là toàn gia cha mẹ dâu rể. Hẳn nhiên, “lũ” ngày ấy không như là “lũ” thời nay, như trong “bè lũ bành trướng bá quyền Bắc Kinh” hay trong “bè lũ diệt chủng Pôn Pốt Iêng-xa-ri” của cuối thập niên 1970. Dẫu biết rằng “lũ” ngày ấy ngụ ý tôn trọng – như là “Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ” khi Nguyễn Đình Chiểu chiêu hồn những nghĩa sĩ trận vong ở Cần Giuộc – nhưng cái cảnh “một lũ theo liền một khi” này trông vẫn lôi thôi, nhếch nhác thế nào mà, thậm chí, còn làm chúng ta liên tưởng đến một đám đá cá lăn dưa hê nhau đi hôi của, đi liền kẻo hết. [3]
 
Trong số những dịch giả nổi tiếng nhất của Truyện Kiều có học giả Huỳnh Sanh Thông và, trong tiếng Anh, hai câu trên, qua nghệ thuật chuyển ngữ của ông, là:
 
All knelt and bowed their thanks to old Giác Duyên,
Then in a group they followed on her heels. [4]
 
Tra cứu thêm các bản dịch khác, của Phan Huy MPH:
 
Together gratefully to Giác Duyên they bowed,
And without delay in her walk they followed. [5]
 
hay của Mica Huynh:
 
They bow to Giác Duyên, and
Follow her steps, finding the girl. [6]
 
sẽ nhận ra rằng, tất cả, chẳng thể nào thể hiện trọn vẹn cảnh tượng lôi thôi nhếch nhác của “bộ hành một lũ”.
 
Vậy đã thấy khó, đến “Thơ Con Cóc” có lẽ còn khó hơn:
 
Con cóc trong hang
Con cóc nhảy ra
Con cóc nhảy ra
Con cóc ngồi đó
Con cóc ngồi đó
Con cóc nhảy đi
 
Bài thơ có cái đẹp “trần trụi” mà nhà phê bình Nguyễn Hưng Quốc đề cập trong bài “Thơ Con Cóc: Một bài thơ hay”, in trong Thơ, vân vân và v.v..., xuất bản năm 1996:
 
Bài Thơ Con Cóc, ngược lại, trần trụi tuyệt đối. Như một cành gai. Không có đến lá, đừng nói gì là hoa. Nó thô tháp. Nó mạnh bạo. Nó sần sùi. Và cũng có thể nói, tàn nhẫn nữa. Nó xoá bỏ hết mọi phấn son và loại trừ hết tất cả cảm xúc thừa thãi để bắt người đọc một minh sửng sờ đối diện với sự vô nghĩa của cuộc đời. Không thể nào có thứ ngôn ngữ nào giản dị hơn thế nữa...
 
Cũng như sự khác nhau trong quan niệm về cái đẹp giữa một khu vườn thừa thãi sắc màu, rộn rã tiếng chim ca, giàu sắc giàu âm đến mức... nhốn nháo lòe loẹt với một vườn thiền u tịch. Người mê hoa lá, sắc màu, tiếng chim và cánh bướm sẽ phát chán với một khoanh cát đơn sơ có thêm vài tảng đá, bất quá thêm cây tùng, cây bách, thoang thoảng từ xa là tiếng nước róc rách, và ngược lại, người thích thơ haiku sẽ phát ngán với bài thơ đầy ắp chi tiết như “Chợ Tết” của Đoàn Văn Cừ. Dịch sao để thấy được sự trái ngược như thế, cái dở của bài thơ theo góc nhìn của người bên này nhưng lại thu hút được niềm say mê của người phía bên kia? [7]
 
Thật là khó quá nhưng có phải vì thế mà chúng ta có quyền kết luận rằng dịch thơ dở khó hơn là dịch thơ hay?
 
Ít ra, về mặt logic thì, chúng ta đã trở nên bất bình thường, hay nói theo ngôn ngữ của Kim Dung là mấp mé bên bờ vực của tình trạng “tẩu hỏa nhập ma” khi làm cho trật tự không gian rối lên. Từ đầu, đã chấp nhận khẳng định của Bùi Giáng rằng việc dịch thơ (hay) là điều “khảm kha nhất”, bây giờ thì lại kết luận rằng việc dịch thơ dở (đáng đọc hay phải đọc) còn “khảm kha hơn”, vậy thì cái nào khó hơn cái nào?
 
Chúng ta bị thế bởi đã dở hơi khi đặt ra một vấn đề không nên đặt. So sánh thế thì có khác nào bảo phải so sánh là, giữa vĩ cầm và dương cầm, nhạc cụ nào có âm thanh hay hơn? Hay, thậm chí, phải so sánh giữa nước tương và nước mắm, giữa phở và bún bò Huế, thứ nào ngon hơn?
 
Nhưng có vậy thì chúng ta mới gặp lại một Chế Lan Viên – người đưa ra quan niệm “thơ dở không dịch được” và từng mang những chiến công hiển hách của cha ông ra so đo hơn kém:
 
Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?
- Chưa đâu! Và ngay cả trong những ngày đẹp nhất
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hoá thành văn
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng...
(“Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?”, 1965)
 
So sánh một cách dở hơi như thế nên, cũng có lúc, nhà thơ này lâm vào tình trạng suýt bị tẩu hỏa nhập ma.
 
Mỗi câu, mỗi chữ của Chế Lan Viên là cả một sự trau chuốt, đầu tư, vậy mà, trong bài “Trận tuyến này cao hơn cả màu da”, công bố vào tháng Tám năm 1967, nhà thơ trở nên bất bình thường, làm rối tung trật tự không gian:
 
Vinh quang nhất là những người nổ súng
Vinh quang hơn là những kẻ đi đầu
 
Nhìn lại, chúng ta biết rằng bài thơ được công bố chỉ bốn tháng trước biến cố Mậu Thân và “thần thái” trong cái dở của nhà thơ cực kỳ chỉn chu về chữ này, phải nói, là sự mất thăng bằng, mất hết nghĩa lý thông thưòng. Đó, phải chăng, là do nhà thơ quá hối hả, quá gấp gáp trong nỗ lực bày tỏ nhiệt tình cách mạng, hối thúc người khác xông vào tử địa?
 
Nói cách khác là, phải chăng, do nôn nóng lập công về chính trị mà nhà thơ dễ dãi với chữ nghĩa nên, nếu dịch thì, với ngữ cảnh của bài thơ, người dịch cũng phải làm sao để toát lên cái sự sốt sắng quá mức cần thiết của một nhà thơ phò chính thống?
 
Tuy nhiên bài thơ, như có thể thấy được cái tên, “Trận tuyến này cao hơn cả màu da”, là cả một sự lên gân và, hơn thế nữa, suy tưởng theo chính tác giả trong “Di cảo thơ”, nó nhất định phải là thứ thơ thuộc về “một nửa” mà hậu thế phải “Trừ đi”: [8]
 
Sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ
Có phải tôi viết đâu? Một nửa
Cái cần viết vào thơ, tôi đã giết đi rồi!
 
Nên, may cho những người dịch thơ thời ấy khi đó là một bài thơ không đáng để dịch, còn Chế Lan Viên cũng chưa phải là một quan chức chính trị cỡ bự để phải bợ đỡ bằng cách dịch một bài thơ mà, từ đầu, đã bị bị chính tác giả tàn sát chất thơ!
  
Tài liệu tham khảo:
  1. Bùi Giáng, “Một đường lối dịch thơ”
2. Huy Cận (2003), Hồi ký song đôi, Nhà xuất bản Hội nhà văn, trang 32
4. Huynh Sanh Thong (1983), The Tale of Kieu, Yale Univeristy Press, New Haven, trang 155
5. https://truyenkieuinenglish.wordpress.com/episode-xxvi/
7. Bản dịch của Tiểu Vĩnh Lạc:
From its hole, the toad is hopping out
The toad is hopping out, and then crouching there
The toad is crouching there, and then hopping away …!
8. Bài thơ “Trừ đi” của Chế Lan Viên:

“Sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ
Có phải tôi viết đâu? Một nửa
Cái cần viết vào thơ, tôi đã giết đi rồi!
Giết một tiếng đau, giết một tiếng cười,
Giết một kỷ niệm, giết một ước mơ,
Tôi giết cái cánh sắp bay...trước khi tôi viết
Tôi giết bão táp ngoài khơi cho được yên ổn trên bờ
Và giết luôn mặt trời trên biển,
Giết mưa và giết cả cỏ mọc trong mưa luôn thể
Cho nên câu thơ tôi gày còm như thế
Tôi viết bằng xương thôi, không có thịt của mình.
Và thơ này rơi đến tay anh
Anh bảo đấy là tôi?
Không phải!
Nhưng cũng chính là tôi - người có lỗi!
Đã giết đi bao nhiêu cái
Có khi không có tội như mình!”
 
Nguyễn Hoàng Văn

Ý kiến bạn đọc
31/05/202516:25:25
Khách
Tạm dịch: (để diễn tả sự khép nép và tất tả của một nhóm người)

Cùng nhau lạy tạ Giác Duyên
Bộ hành một lũ theo liền một khi

***

Groveled afoot at Giac Duyen
A herd of heads hastily set out
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một số kỷ niệm với Miền Đông Hoa Kỳ. Nhớ những ngày cùng theo nhà thơ Giang Hữu Tuyên ôm báo dưới mưa tuyết lất phất. Nhớ những buổi chiều ngồi tới khuya ở nhà anh Ngô Vương Toại, một nhà báo nổi tiếng từ thơi sinh viên ở Sài Gòn vì bị bắn trên một sân khấu nhạc ngoài trời và cuối đời trở thành một nhà truyền thông nổi tiếng trên đài Á Châu Tự Do RFA. Tôi nhớ giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, người cực kỳ uyên bác với vốn học và nghiên cứu, và cũng là người cực kỳ thơ mộng với các phân tích về thơ Việt Nam và quốc tế. Và nhớ tới họa sĩ Đinh Cường, người khi vừa mới tới định cư ở Hoa Kỳ là đã có những cuộc triển lãm sôi nổi.
Biết cụ từ lâu, nhưng chúng tôi không được vào lớp học của cụ, tuy vậy có nhiều lần thầy Nguyễn Đăng Thục, mời cụ thỉnh giảng ở đại học văn khoa Saïgon, chúng tôi đã được nghe những lời giảng giải, , những lời vàng ngọc của cụ, hôm đấy cụ nói về vấn đề “dinh tê”, là chỉ dậy cho thanh niên sinh viên tại sao lại có vấn đề dinh tê, là việc đi kháng chiến, rồi lại đổi ý về thành phố… đã lâu rồi, tôi vẫn nhớ lơ mơ là thầy giảng cặn kẽ từ đầu, từ ngôn từ… dinh là đi, là đi về (như trong câu: anh đưa nàng về dinh, vậy đó, vậy đó, phải đúng không, anh Nguyễn Viết Sơn?) còn tê là nhại theo chữ tây thời Pháp thuộc, ý nghĩa của chữ rentrée! Nếu tôi nhớ lơ mơ thì xin một chữ đại xá! Tại vì lâu quá lâu rồi.
William Shakespeare và Anne Hathaway thành vợ chồng vào năm 1582. Chàng mới mười tám tuổi, nàng hai mươi sáu và đang mang thai. Một năm sau, Susanna ra đời. Đến năm 1585, cặp song sinh Judith và Hamnet xuất hiện, khiến căn nhà nhỏ ở Stratford-upon-Avon đầy thêm tiếng trẻ. Trong khi Anne ở lại quê chăm con và giữ nếp nhà, Shakespeare phần lớn thời gian sống giữa London—cách Stratford gần trăm dặm—nơi ông theo đuổi sân khấu và chữ nghĩa. Những năm tháng ấy, ông vẫn đều đặn đi về, nhưng cuộc sống gia đình đa phần đặt trên vai Anne.
Nói đến thi ca “một thời” của Thầy thì khả năng nào để nói, chữ nghĩa nào để diễn đạt, và tư tưởng – tình cảm nào để thấu ý thơ. Thôi thì mình nói bằng tấm lòng chân thành, bằng chút ân tình quý kính mà Thầy trò một thời học tập, làm việc bên nhau. Do vậy, xin đừng bông đùa chữ nghĩa mà thất lễ. Tản mạn thi ca, người viết muốn nói đến vài ý thơ của Thầy đã rơi rớt đâu đó, ẩn núp dưới rặng chân mây, bên bờ vực thẳm, hay như là ủ mình nơi “không xứ” vượt thoát tử sinh của bậc Đại sĩ, mà hòa quyện với đời một thứ tình cảm thâm trầm, da diết của thi nhân.
LTS: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ (1945-2023) là một học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà phiên dịch Tam Tạng Kinh điển Phật Giáo của Việt Nam trong thời hiện đại. Thầy đã xuất bản hàng chục tác phẩm về Phật học, văn học và triết học. Thầy viên tịch vào ngày 24/11/2023 tại Chùa Phật Ân, Đồng Nai, Việt Nam. Việt Báo xin dành số báo đặc biệt kỳ này để tưởng niệm hai năm ngày Thầy viên tịch và cũng để tỏ lòng tri ân những đóng góp của Thầy cho nền văn hóa và văn học của Dân Tộc và Phật Giáo Việt Nam.
Với lòng kính cẩn và tri ân, xin được cùng hướng về vị Thầy chung của chúng ta: Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ, người đã một đời cống hiến cho sự nghiệp văn hoá, giáo dục và sự tồn vong của Chánh Pháp. Người là bậc Cao tăng, Thạc đức của Phật giáo Việt Nam. Người là hiện thân của Bồ-đề nguyện và Bồ-đề hành. Người là bậc Đại sĩ, bằng bi nguyện và hùng lực đã giữ vững con thuyền Đạo pháp trong lòng Dân tộc. Từ thuở thiếu thời, Người đã bộc lộ tài hoa, cốt cách và phẩm hạnh cao quý của Sa môn. Tuổi ba mươi đã phải khép lại những trang cảo thơm, lên rừng xuống biển, chịu lênh đênh cùng vận nước thăng trầm. Bản án tử hình không khiến Người dao động tâm tư, chỉ làm sáng thêm tinh thần “uy vũ bất năng khuất”. Tù đày và quản thúc không thể thay đổi được một người đã quyết tâm sống trọn vẹn với những giá trị mình đã lựa chọn.
Quán trọ là cõi tạm thế gian. Nẻo về là Niết-bàn lộ. Từ quán trọ đến Niết-bàn, nói xa thì muôn trùng vạn dặm của ba A-tăng-kỳ kiếp, mà nói gần thì chỉ cách nhau trong đường tơ kẽ tóc của một móng tâm. Tâm khởi động thì ở quán trọ. Tâm tịch lặng thì là Niết-bàn. Khi khởi tâm “nhớ nửa cung đàn” thì đang ở quán trọ. Nhưng hãy để ý chữ “nửa cung đàn” là cách ẩn dụ của nhà thơ Tuệ Sỹ. Nó diễn bày một cách tinh tế cảm thức siêu thoát của nhà thơ. Nhớ trọn cung đàn thì đó là thứ nhớ nhung bị vướng lụy của tình cảm phàm tình. Nhớ “nửa cung đàn” thì đó chỉ là dư âm lướt nhẹ qua tâm hồn rỗng lặng như cánh chim bay qua bầu trời xanh không để lại dấu vết gì. Thầy Tuệ Sỹ là người nghệ sĩ siêu thoát, như có lần nhà bình luận văn học Đặng Tiến đã viết về thơ của Thầy trong bài “Âm trầm Tuệ Sỹ”:“Thơ bao giờ cũng phản ảnh ba tính cách: môi trường xã hội trong lịch sử; ngôn ngữ trong những biến chuyển với thời đại; và tác giả, qua đời sống hàng ngày;
“Cụ tượng” – cái tên nghe vừa vụng, vừa ngang. Vụng, vì nó ngắt gọn một cách bất chấp quy phạm. Ngang, vì nó từ chối cả hệ thống gọi tên vốn dĩ đã quá đông đúc của nghệ thuật: nào “trừu tượng”, nào “biểu hiện”, nào “tối giản”. Bùi Chát không tham gia vào cuộc xếp loại ấy, anh chỉ muốn gọi đúng động tác của mình: cụ thể hóa những mảnh hỗn độn mù mờ bên trong.
Tôi không trừu tượng hóa thế giới hiện thực này. Khi vẽ, tôi chỉ cụ thể hóa những trừu tượng luôn có sẵn trong tôi. “Trừu tượng” đối với tôi không phải sự biến dạng hiện thực. Nó vốn tồn tại từ trước, trong những tầng hỗn độn mù mờ bên trong con người. Thứ đó không tên gọi, không hình dáng, như một khối đá chưa được đẽo gọt, một đám mây cuộn không thể nắm bắt. Khi vẽ, tôi chỉ làm công việc duy nhất: kéo nó ra ngoài, trao cho nó một hình thái bằng màu, bằng nét, bằng bố cục.
Mùa Thu ở Seattle hiện tại và mùa Thu ở làng Cau, tỉnh Thái Bình mấy mươi năm về trước cùng bềnh bồng trôi trong trái tim của một người di tản, như những con tằm qua bao bàn tay của người phụ nữ lao động thành tấm áo tơ đẹp như gấm trên nước Trung Hoa… mà người dệt lụa không bao giờ được mặc, và người mặc áo tơ tằm đó cũng không bao giờ biết được công lao và tài hoa của người làm nên sản phẩm quý đó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.