Hôm nay,  

‘Ăn Chay’ Với Yeong-hye

11/22/202400:00:00(View: 3083)

Capture
 
Tôi bước lên chuyến xe buýt, đúng với tuyến đường Han Kang đã chỉ cho In-hye, chị Yeong-hye đi. Núi Chuk-sung hôm nay không ẩm ướt. Những gốc cây to không mang vẻ “run rẩy trong mưa.” Ngược lại, nó trầm mặc, bất động, vì hôm nay trời không mưa gió.
 
Bệnh viện nơi Yeong-hye trú ngụ hiện ra giữa những con núi. Ngôi nhà trắng toát, nhỏ bé lọt thỏm giữa thiên nhiên. Thần núi, thần rừng bao quanh, sẵn sàng che chở những linh hồn đi lạc. Nơi này, Yeong-hye và nhiều người khác nữa, tách biệt khỏi thế giới bên ngoài. Họ sống đúng với bản năng cây cỏ, hào phóng cho mầm sống vươn ra từ bất cứ nơi nào trên cơ thể mình. Nơi này, không ai cần hiểu vì sao “đứa trẻ bé như thế… lúc mới sinh ra ai cũng thế này à?” Nơi này, không có những ánh mắt ái ngại, tò mò nhìn vào hai đầu nhọn nổi lên phía trước ngực Yeong-hye. Nơi này không phải là nơi cho loài người sống cuộc đời cam chịu như chị của Yeong-hye, “rời khỏi nhà từ năm 19 cuổi, một thân một mình không nhờ vả bất cứ ai để bươn chải cuộc sống ở Seoul” hoặc luôn phải “nấu canh giải rượu cho bố.” Nơi này, càng không phải dành cho những người chọn nắm đấm để giải quyết vấn đề như bố của Yeong-hye.
 
Yeong-hye đang trồng cây chuối. Chị của Yeong-hye đã báo trước em mình muốn trở thành một cái cây – cái cây nở hoa, tự mình vươn lên đón ánh nắng. “Cây Pháo Hoa”, vùng đất Yeong-hye đang ở là không gian ngập tràn ánh sáng, chứ không u ám, sợ hãi, vương vãi máu và lãnh cảm như nơi cô từng sống với người chồng cũ và trở thành “Người Ăn Chay” chỉ sau một đêm; cũng không có những cảm xúc vừa bản năng vừa vô hồn từ “Vết Chàm Mongolia.”
 
Tôi bước đến, ngồi xuống bên cạnh Yeong-hye, chậm rãi nói:
 
-          Yeong-hye, tôi biết giấc mơ đó.
 
-          Đã nằm mơ à?
 
Yeong-hye hỏi, vẫn giữ tư thế trồng chuối.
 
Tôi lắc đầu, lẩm bẩm:
 
-          Chị ấy nằm mơ. Trước mặt chị ấy là một tô phở nóng. Trong tô đầy thịt, nhưng là thịt người. Rồi chị ấy ăn chay, từ một tháng nay.
 
Yeong-hye bật người lại, ánh mắt hoàn toàn không cảm xúc, ánh mắt khô như vỏ cây cổ thụ.
 
-          Đừng ăn. Không thích ăn. Ghét ăn. Tại sao phải ăn.
 
Tôi nhìn Yeong-hye bước đến cạnh cửa sổ. Cô rướn cơ thể gầy gò ra ngoài ô cửa, ngửa mặt lên trời cho ánh nắng hắt thẳng vào. Đôi mắt Yeong-hye vẫn mở to nhất định không nhắm lại vì cái chói chang của tia mặt trời. Những cây cổ thụ cao to bên ngoài cũng thế. Chúng nó không phải nhắm mắt. Một trong những nguyên tắc sinh tồn của cây là luôn tìm ánh nắng để nghiêng về. Yeong-hye cũng thế.
 
Nhưng những người trong gia đình của cô không biết điều đó. Họ không biết Yeong-hye cần gì, dù đó là khi cô chọn im lặng hoặc đã phải gào lên kháng cự bằng máu trong thanh quản.
 
Tôi muốn nhìn thẳng Yeong-hye, để hiểu vì sao người phụ nữ kia nằm mơ, rồi ăn chay, nhưng gương mặt không giống với Yeong-hye của Han Kang trong “Vết Chàm Mongolia”? Han Kang kể, Yeong-hye đã vượt thoát cùng với vết chàm định mệnh ấy, là một đứa trẻ ngây thơ hồn nhiên, sống hoàn toàn ngoài vòng vẫn đục.
 
Nụ cười của cô trong vắt, thiêng liêng, đối lập hoàn toàn với những tiếng kêu thất thanh cắt da cắt thị của “Người Ăn Chay” và ‘Vết Chàm Mongolia.”
 
Đến cả những dòng nước trong cơ thể cô khi tuôn ra cũng bất cần phải có nhục cảm bản năng con người.
 
Từ khi Yeong-hye vào bệnh viện, những người từng ảnh hưởng đến cuộc đời cô đều biến mất như chưa từng xuất hiện. Han Kang không cho họ vào thăm, dù là máu mủ. Dù vết chàm Mongolia vẫn còn đó nhưng những bông hoa nở chung quanh nó đã tàn lụi. Những bông hoa chỉ có một đời.
 
Mỗi một mình In-hye, chị của Yeong-hye bên cạnh, với sứ mệnh là đẩy ra hết những bi kịch gia đình đã che dấu suốt mấy chục năm qua. In-hye không lãnh phần bi kịch thay cho Yeong-hye, mà chính là Yeong-hye giúp chị phải đẩy ra hết những phần đã chết trong nửa phần đời trước, và chấp nhận bi kịch trong nửa phần đời còn lại.
 
“Mỗi lần giặt chiếc quần đẫm máu không hiểu vì lý do gì mà cô cứ liên tưởng tới hình ảnhdòng máu ở cổ tay Yeong-hye phụt ra cách đó mấy tháng. Sợ đi đến bệnh viện nên cứ ngày nàyqua ngày khác lần lữa việc đi khám…”
 
Nỗi sợ hãi và sức chịu đựng bám lấy gia đình của Yeong-hye, lâu ngày hóa thành rễ, thành những mảnh xù xì chai cứng theo thời gian. Mỗi người họ có cách ứng phó với bi kịch đó. Bố của Yeong-hye chọn rượu. Mẹ Yeong-hye chọn căn bếp. Em trai Yeong-hye chọn cách ra đường đánh lại người khác sau mỗi trận đòn của bố. Yeong-hye chọn cách nài nỉ chị “đừng trở về nơi đó nữa”. In-hye chọn sự cam chịu. Yeong-hye lấy chồng, đơn giản như cách cô cởi bỏ một nút áo ngực và mặc kệ ánh nhìn soi mói của thế gian. 
 
Những phẫn uất tiềm ẩn mãi mãi không hiện sinh nếu Yeong-hye không mơ thấy giấc mơ đó – giấc mơ không ai biết. Nhưng đó là giấc mơ có thực. Vì nó đã lột trần ra hết sự ích kỷ của những người ruột thịt, những người cùng chăn gối khi đối đãi với nhau. Nó chứng minh tình yêu vợ chồng, tình yêu gia đình mà Yeong-hye đang sống chỉ là sự trói buộc sở thích, cảm xúc của nhau. Ở nơi đó, In-hye, Yeong-hye, và cả những người chồng của họ, không có quyền sống thật với chính mình. Tất cả những gì trái ngược với cách con người tồn tại trong thế gian này đều là bất bình thường, đều không có quyền.
 
Tôi bước đến gần Yeong-hye, tự hỏi khi đã vào đây, cô sẽ được quyền không ăn?
 
Không. Tôi đã lầm.
 
Han Kang kể, bị kịch cuối cùng của Yeong-hye là “không được quyền chết!”
 
Người ta vẫn buộc cô phải truyền dịch để sống. Phản kháng cuối cùng khi sức tàn lực kiệt của Yeong-hye là máu trào ra từ phổi, từ tim, từ nội tạng. Và họ lại chuyển viện cho cô để cô “được sống.”
 
Tôi tạm biệt Yeong-hye. Con đường quanh co núi Chuk-sung dẫn ra ngoài đầy mùi cây cỏ. Tôi chợt hiểu tại sao Yeong-hye luôn ao ước hóa thành cây cổ thụ kia. Vì cây to chỉ cần ánh nắng để sinh tồn. Khi gió thổi, những cành và tán lá của nó vẫy gọi nhau.
 
“Chị, tất cả cây cối trên đời này hình như đều là anh em của nhau.”
 
Khi trời ngừng gió, chúng nó cùng im lặng tuyệt đối, tận hưởng thế giới riêng của mình. Không làm đau đớn nhau. Không nhìn nhau bằng những ánh nhìn dò xét nghi kỵ.
 
Rồi Yeong-hye có thành cái cây đó không? Không biết. Han Kang chỉ nói rằng, cả In-hye lẫn Yeong-hye đều không biết “khi nào sẽ tỉnh lại.”
 
“Trong mơ, cứ tưởng như đó là tất cả sự thật. Nhưng khi tỉnh dậy sẽ biết là không phải... thế cho nên, đến lúc nào đó chúng mình cũng tỉnh lại, khi đó…”
 
Và tôi cũng chợt hiểu, vì sao gương mặt của người phụ nữ ăn chay vì nằm mơ thấy một tô phở đầy thịt người không có những khoảnh khắc giống với gương mặt trẻ thơ, vô hồn của Yeong-hye.
 
Vì Yeong-hye phải tiếp tục kháng cự và chịu đựng!
 
Kalynh Ngô
   

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Bạn nghe một người nói, nhưng không lên tiếng, bạn suy nghĩ nhưng không bộc lộ. Bạn nén sự giận dữ xuống, bạn bôi xóa sự khinh bạc, bạn chờ cho những lời ca tụng giả dối lắng xuống, bạn giữ lại lời khen ngợi đối với một người xứng đáng thêm một ngày nữa, để nó được nung chín trong lòng.
Cầm cuốn sách mới trong tay, tôi lại nhớ có lần ở quán cafe, Trịnh Y Thư băn khoăn, không biết chúng mình in sách vào thời này có phải là chuyện vô ích không, có phải là quá mơ mộng không. Với đa số, nhất là thế hệ trẻ hơn thì có lẽ là cái gật đầu, nhưng đối với chúng tôi, chúng tôi yêu quý cái vô ích, cái mơ mộng ấy. Tôi xin chia sẻ với quý vị cảm xúc rất riêng của tôi về sách. Nếu không có sách làm sao ta có thể cầm được trên tay cái vật thể nhỏ bé này, một thành quả nhìn bắng mắt cầm bằng tay, chứa đựng trong đó những con chữ đồng hành cùng những phút giây cảm hứng. Không có sách làm sao tôi có thể cảm nhận được trọn vẹn cái sức nặng của hạnh phúc hữu hình trên trang giấy với những dòng chữ ký tặng này? Và khi đọc sách, nghe được tiếng sột soạt khi lật trang giấy, ngửi được mùi giấy mới và cả mùi hương của sáng tạo. Một khi không còn ai in sách nữa thì những tủ đựng sách đẹp đẽ sẽ là món đồ cổ chứng nhân một thời kỳ sách huy hoàng. Và nếu không có sách thì làm sao chúng có được nhữn
Một truyện ngắn kinh điển của văn hào André Maurois, qua bản dịch của nhà văn Thân Trọng Sơn.
Không phải ngẫu nhiên mà Viết Về Nước Mỹ được nhà thơ Nguyên Sa gọi là “Lịch Sử Ngàn Người Viết.” Mà nếu tính cho đến ngày hôm nay, con số “ngàn” ấy chắc đã lên tới chục ngàn, trăm ngàn. Viết Về Nước Mỹ năm nay là năm thứ 25.
Trong không gian tĩnh lặng của một buổi sớm mùa thu tại thủ phủ Sacramento. Trời đã se lạnh, gió mùa vừa sang và những cơn mưa cũng đang bắt đầu nặng hạt, con chắp tay hướng về phương trời xa, nơi pháp thân Thầy vẫn tỏa rạng giữa hư vô. Bao nhiêu lời muốn nói, rồi bỗng hóa thành im lặng, vì làm sao dùng được lời phàm để nói hết công đức, trí tuệ và từ bi của một bậc Thạc đức như Thầy, người mà bốn chúng gọi là bậc minh sư, bậc long tượng Phật Giáo Việt Nam – Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ – người đã hiến trọn đời mình cho đạo pháp, dân tộc và nhân loại.
Khi nói tới những dòng thơ không bao giờ chết, nơi đây chúng ta chỉ muốn nói rằng có những dòng chữ sẽ vẫn được lưu giữ trong ký ức một dân tộc, bất kể là những trận mưa bom, đạn, mìn, đại bác không ngừng bắn vào họ. Và ngay cả khi những tập thơ, các trang giấy có bị đốt ra tro, những dòng thơ đó sẽ vẫn được lưu truyền từ đời này sang đời kia của một dân tộc, nếu họ còn sống sót. Chúng ta may mắn sống trong thời đại của điện thoại thông minh và Internet, nên được nhìn thấy những hình ảnh, đoạn phim, được nghe những tiếng kêu đau đớn từ dưới những đống gạch vụ, và được đọc những đoạn thơ ngắn được gửi ra rất vội từ những người sống sót sau các trận thảm sát. Thế giới này đầy những trận mưa tội ác, từ thảm sát Ukraine tới gạch vụn Gaza...
Trong dòng chảy của Văn học hải ngoại, Trịnh Y Thư là một thành phần cá biệt. Văn chương nghệ thuật với ông trước hết phải đồng nghĩa với cái Đẹp và ông đã áp dụng trong văn thơ cũng như dịch phẩm của ông...
Nhà thơ tên thật Lê Hà Vĩnh, sinh năm 1940 tại Hải Dương. Ông theo gia đình di cư vào Nam năm 1954. Đầu thập niên 1960 ông cộng tác với Nguyên Sa làm tờ Gió Mới. Sau ngày 30-4-1975, ông cùng vợ - Nhã Ca, bị chính quyền Cộng sản Việt-Nam bắt giữ, riêng ông bị giam cầm 12 năm, 1976 -1988.
Nhã Ca, tên thật Trần Thị Thu Vân, sinh ngày 20-10-1939 tại Huế. Nhà văn nhà báo thời Việt Nam Cộng Hoà, sau nhiều năm tháng bị bắt và tù đày sau biến cố 30-4-1975, đã được Văn Bút Thụy Điển bảo lãnh sang nước này tháng 9-1988. Một thời cùng gia-đình sang định cư ở vùng Quận Cam CA, cùng chồng Trần Dạ Từ chủ trương tuần báo Việt Báo Kinh Tế (sau thành nhật-báo Việt Báo và từ tháng 12-2019 trở lại thành tuần báo) rồi thêm Việt Báo USA (San Jose, cùng Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh)


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.