Hôm nay,  

‘Ăn Chay’ Với Yeong-hye

11/22/202400:00:00(View: 2672)

Capture
 
Tôi bước lên chuyến xe buýt, đúng với tuyến đường Han Kang đã chỉ cho In-hye, chị Yeong-hye đi. Núi Chuk-sung hôm nay không ẩm ướt. Những gốc cây to không mang vẻ “run rẩy trong mưa.” Ngược lại, nó trầm mặc, bất động, vì hôm nay trời không mưa gió.
 
Bệnh viện nơi Yeong-hye trú ngụ hiện ra giữa những con núi. Ngôi nhà trắng toát, nhỏ bé lọt thỏm giữa thiên nhiên. Thần núi, thần rừng bao quanh, sẵn sàng che chở những linh hồn đi lạc. Nơi này, Yeong-hye và nhiều người khác nữa, tách biệt khỏi thế giới bên ngoài. Họ sống đúng với bản năng cây cỏ, hào phóng cho mầm sống vươn ra từ bất cứ nơi nào trên cơ thể mình. Nơi này, không ai cần hiểu vì sao “đứa trẻ bé như thế… lúc mới sinh ra ai cũng thế này à?” Nơi này, không có những ánh mắt ái ngại, tò mò nhìn vào hai đầu nhọn nổi lên phía trước ngực Yeong-hye. Nơi này không phải là nơi cho loài người sống cuộc đời cam chịu như chị của Yeong-hye, “rời khỏi nhà từ năm 19 cuổi, một thân một mình không nhờ vả bất cứ ai để bươn chải cuộc sống ở Seoul” hoặc luôn phải “nấu canh giải rượu cho bố.” Nơi này, càng không phải dành cho những người chọn nắm đấm để giải quyết vấn đề như bố của Yeong-hye.
 
Yeong-hye đang trồng cây chuối. Chị của Yeong-hye đã báo trước em mình muốn trở thành một cái cây – cái cây nở hoa, tự mình vươn lên đón ánh nắng. “Cây Pháo Hoa”, vùng đất Yeong-hye đang ở là không gian ngập tràn ánh sáng, chứ không u ám, sợ hãi, vương vãi máu và lãnh cảm như nơi cô từng sống với người chồng cũ và trở thành “Người Ăn Chay” chỉ sau một đêm; cũng không có những cảm xúc vừa bản năng vừa vô hồn từ “Vết Chàm Mongolia.”
 
Tôi bước đến, ngồi xuống bên cạnh Yeong-hye, chậm rãi nói:
 
-          Yeong-hye, tôi biết giấc mơ đó.
 
-          Đã nằm mơ à?
 
Yeong-hye hỏi, vẫn giữ tư thế trồng chuối.
 
Tôi lắc đầu, lẩm bẩm:
 
-          Chị ấy nằm mơ. Trước mặt chị ấy là một tô phở nóng. Trong tô đầy thịt, nhưng là thịt người. Rồi chị ấy ăn chay, từ một tháng nay.
 
Yeong-hye bật người lại, ánh mắt hoàn toàn không cảm xúc, ánh mắt khô như vỏ cây cổ thụ.
 
-          Đừng ăn. Không thích ăn. Ghét ăn. Tại sao phải ăn.
 
Tôi nhìn Yeong-hye bước đến cạnh cửa sổ. Cô rướn cơ thể gầy gò ra ngoài ô cửa, ngửa mặt lên trời cho ánh nắng hắt thẳng vào. Đôi mắt Yeong-hye vẫn mở to nhất định không nhắm lại vì cái chói chang của tia mặt trời. Những cây cổ thụ cao to bên ngoài cũng thế. Chúng nó không phải nhắm mắt. Một trong những nguyên tắc sinh tồn của cây là luôn tìm ánh nắng để nghiêng về. Yeong-hye cũng thế.
 
Nhưng những người trong gia đình của cô không biết điều đó. Họ không biết Yeong-hye cần gì, dù đó là khi cô chọn im lặng hoặc đã phải gào lên kháng cự bằng máu trong thanh quản.
 
Tôi muốn nhìn thẳng Yeong-hye, để hiểu vì sao người phụ nữ kia nằm mơ, rồi ăn chay, nhưng gương mặt không giống với Yeong-hye của Han Kang trong “Vết Chàm Mongolia”? Han Kang kể, Yeong-hye đã vượt thoát cùng với vết chàm định mệnh ấy, là một đứa trẻ ngây thơ hồn nhiên, sống hoàn toàn ngoài vòng vẫn đục.
 
Nụ cười của cô trong vắt, thiêng liêng, đối lập hoàn toàn với những tiếng kêu thất thanh cắt da cắt thị của “Người Ăn Chay” và ‘Vết Chàm Mongolia.”
 
Đến cả những dòng nước trong cơ thể cô khi tuôn ra cũng bất cần phải có nhục cảm bản năng con người.
 
Từ khi Yeong-hye vào bệnh viện, những người từng ảnh hưởng đến cuộc đời cô đều biến mất như chưa từng xuất hiện. Han Kang không cho họ vào thăm, dù là máu mủ. Dù vết chàm Mongolia vẫn còn đó nhưng những bông hoa nở chung quanh nó đã tàn lụi. Những bông hoa chỉ có một đời.
 
Mỗi một mình In-hye, chị của Yeong-hye bên cạnh, với sứ mệnh là đẩy ra hết những bi kịch gia đình đã che dấu suốt mấy chục năm qua. In-hye không lãnh phần bi kịch thay cho Yeong-hye, mà chính là Yeong-hye giúp chị phải đẩy ra hết những phần đã chết trong nửa phần đời trước, và chấp nhận bi kịch trong nửa phần đời còn lại.
 
“Mỗi lần giặt chiếc quần đẫm máu không hiểu vì lý do gì mà cô cứ liên tưởng tới hình ảnhdòng máu ở cổ tay Yeong-hye phụt ra cách đó mấy tháng. Sợ đi đến bệnh viện nên cứ ngày nàyqua ngày khác lần lữa việc đi khám…”
 
Nỗi sợ hãi và sức chịu đựng bám lấy gia đình của Yeong-hye, lâu ngày hóa thành rễ, thành những mảnh xù xì chai cứng theo thời gian. Mỗi người họ có cách ứng phó với bi kịch đó. Bố của Yeong-hye chọn rượu. Mẹ Yeong-hye chọn căn bếp. Em trai Yeong-hye chọn cách ra đường đánh lại người khác sau mỗi trận đòn của bố. Yeong-hye chọn cách nài nỉ chị “đừng trở về nơi đó nữa”. In-hye chọn sự cam chịu. Yeong-hye lấy chồng, đơn giản như cách cô cởi bỏ một nút áo ngực và mặc kệ ánh nhìn soi mói của thế gian. 
 
Những phẫn uất tiềm ẩn mãi mãi không hiện sinh nếu Yeong-hye không mơ thấy giấc mơ đó – giấc mơ không ai biết. Nhưng đó là giấc mơ có thực. Vì nó đã lột trần ra hết sự ích kỷ của những người ruột thịt, những người cùng chăn gối khi đối đãi với nhau. Nó chứng minh tình yêu vợ chồng, tình yêu gia đình mà Yeong-hye đang sống chỉ là sự trói buộc sở thích, cảm xúc của nhau. Ở nơi đó, In-hye, Yeong-hye, và cả những người chồng của họ, không có quyền sống thật với chính mình. Tất cả những gì trái ngược với cách con người tồn tại trong thế gian này đều là bất bình thường, đều không có quyền.
 
Tôi bước đến gần Yeong-hye, tự hỏi khi đã vào đây, cô sẽ được quyền không ăn?
 
Không. Tôi đã lầm.
 
Han Kang kể, bị kịch cuối cùng của Yeong-hye là “không được quyền chết!”
 
Người ta vẫn buộc cô phải truyền dịch để sống. Phản kháng cuối cùng khi sức tàn lực kiệt của Yeong-hye là máu trào ra từ phổi, từ tim, từ nội tạng. Và họ lại chuyển viện cho cô để cô “được sống.”
 
Tôi tạm biệt Yeong-hye. Con đường quanh co núi Chuk-sung dẫn ra ngoài đầy mùi cây cỏ. Tôi chợt hiểu tại sao Yeong-hye luôn ao ước hóa thành cây cổ thụ kia. Vì cây to chỉ cần ánh nắng để sinh tồn. Khi gió thổi, những cành và tán lá của nó vẫy gọi nhau.
 
“Chị, tất cả cây cối trên đời này hình như đều là anh em của nhau.”
 
Khi trời ngừng gió, chúng nó cùng im lặng tuyệt đối, tận hưởng thế giới riêng của mình. Không làm đau đớn nhau. Không nhìn nhau bằng những ánh nhìn dò xét nghi kỵ.
 
Rồi Yeong-hye có thành cái cây đó không? Không biết. Han Kang chỉ nói rằng, cả In-hye lẫn Yeong-hye đều không biết “khi nào sẽ tỉnh lại.”
 
“Trong mơ, cứ tưởng như đó là tất cả sự thật. Nhưng khi tỉnh dậy sẽ biết là không phải... thế cho nên, đến lúc nào đó chúng mình cũng tỉnh lại, khi đó…”
 
Và tôi cũng chợt hiểu, vì sao gương mặt của người phụ nữ ăn chay vì nằm mơ thấy một tô phở đầy thịt người không có những khoảnh khắc giống với gương mặt trẻ thơ, vô hồn của Yeong-hye.
 
Vì Yeong-hye phải tiếp tục kháng cự và chịu đựng!
 
Kalynh Ngô
   

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Trong một tiểu luận về văn chương Franz Kafka, Milan Kundera đã bắt đầu bằng một câu chuyện có thật xảy ra trên xứ Tiệp Khắc, quê hương ông, dưới thời đảng Cộng sản còn cai trị đất nước này. Một anh kỹ sư được mời sang thủ đô London, Anh quốc để tham dự một hội nghị chuyên ngành. Hôm trở về nhà vào văn phòng làm việc, anh lật tờ báo mới phát hành sáng hôm đó và đã giật bắn người vì trên báo loan tin một kỹ sư người Tiệp sang London dự hội nghị đã xin tị nạn chính trị ở lại Tây phương. Nên nhớ đó là cao điểm căng thẳng của cuộc Chiến tranh Lạnh toàn cầu, đối với các quốc gia trong khối Cộng sản, tị nạn chính trị có nghĩa là phản quốc, là trọng tội mang án tử hình. Anh kỹ sư nọ đã vô cùng hoảng hốt khi đọc bản tin trên báo.
Khi một tác giả hoàn tất xong một bản thảo của một tác phẩm mới, câu hỏi đầu tiên có lẽ tác giả sẽ tự nêu lên rằng: ai sẽ đọc những dòng chữ này của mình? Hẳn là Thầy Tuệ Sỹ cũng có suy nghĩ như thế khi hoàn tất bản thảo tác phẩm “Lý Hạ: Bàn Tay Của Quỷ” vào ngày 19/1/1975. Xin chú ý con số rất tiền định: 1975. Người viết đã hình dung ra hình ảnh Thầy Tuệ Sỹ đứng nơi Thư Viện Đại Học Vạn Hạnh nhìn ra sân trường, khi Thầy vừa hoàn tất tác phẩm trên khoảng gần nửa thế kỷ trước. Thầy Tuệ Sỹ đã suy nghĩ gì khi cất bản thảo trên vào một góc kệ sách và rồi đời Thầy sẽ không còn thì giờ để mở ra xem nữa? Những gì đời sau biết về nhà thơ Lý Hạ của Trung Hoa không nhiều như các nhà thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tô Đông Pha, Lý Thương Ẩn... Nhà thơ Lý Hạ tuổi thọ chỉ khoảng 25 hoặc 26 hoặc 27 tuổi. Năm sinh của Lý Hạ mơ hồ: tiểu sử trên Wikipedia ghi rằng họ Lý sinh năm 790 hoặc 791.
Đêm sông Hậu, trăng khuyết chiếu mờ mặt sông, sóng ì ọp vỗ mạn thuyền. Đôi khi một bầy chim ăn đêm bay qua sát đầu chúng tôi, cánh chúng xòe ra trong trăng. Đôi khi những con dơi bay chập choạng trong tối như những linh hồn người chết trở lại thăm bạn cũ. Chúng tôi thì thào vào tai nhau những câu chuyện nghe được từ dân làm nghề sông nước. Có lúc sự kiểm soát không gay gắt lắm, chúng tôi được phép lên sàn thuyền ngồi hóng gió. Đôi khi một chiếc ghe nhỏ đi ngang qua, ông chủ thuyền kêu lại mua thêm thức ăn. Không khí ngày tết rộn ràng, tiếng hò trên sông, tiếng máy thuyền, tiếng mua bán nói cười ầm ĩ vọng lại từ một đời sống nửa thực nửa mơ. Một người phụ nữ ngồi trên thuyền vá lại chiếc áo rách cho chồng, như thể chị đang ngồi trong một căn bếp ở thôn xóm an bình nào đó
“Làm nghệ sĩ là một lời cam kết với đồng loại rằng những vết rách của kiếp sống sẽ không biến ta thành kẻ sát nhân,” Louise Bourgeois từng viết trong nhật ký thuở thiếu thời. “Những kẻ làm thơ — tôi muốn nói: mọi nghệ sĩ — rốt cuộc là những kẻ duy nhất biết sự thật về chúng ta,” James Baldwin từng viết ở tuổi ba mươi, “…không phải binh lính, càng không phải chính khách… chỉ có thi sĩ.” Và sự thật ấy, cách ta yêu, cách ta cho đi, và cách ta chịu đựng –là chính bản thể của ta.
Tờ Việt Báo Kinh Tế số 28 ngày 13 tháng 2 năm 1993 có đăng bài thơ “Lửa, Thấy Từ Stockholm” của nhà thơ Trần Dạ Từ, nhân tuần lễ nhà văn Thảo Trường thoát khỏi nhà tù lớn đến định cư ở Hoa Kỳ. Đây là bài thơ Trần Dạ Từ viết từ 1989 rời Việt Nam, khi được các bạn Văn Bút Thụy Điển mời ăn cơm chiều, Ông nhớ đến bạn còn ở trong tù khổ sai dưới chân núi Mây Tào, Hàm Tân. 33 năm đã trôi qua kể từ ngày chúng ta chào đón nhà văn Thảo Trường đến Hoa Kỳ, 15 năm kể từ ngày Thảo Trường từ bỏ thế gian, Chiều Chủ Nhật tuần này, 22 tháng Sáu, nhân dịp tái xuất bản bốn cuốn sách của Thảo Trường (Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng; Người Khách Lạ Trên Quê Hương; Ngọn Đèn; Lá Xanh), bạn bè văn hữu và gia đình cùng tề tựu tưởng nhớ Nhà Văn. Việt Báo trân trọng mời độc giả cùng đọc, cùng nhớ nhà văn lớn của chúng ta, một thời, một đời.
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
Giải thưởng cho thể loại Tiểu Thuyết (Fiction) về tay nhà văn Percival Everett với tác phẩm James. Tiểu thuyết James là sự tái hiện nhân vật Huckleberry Finn trong tiểu thuyết Adventures of Huckleberry Finn của văn hào Mark Twain. Nhà văn Percival Everett kể lại góc nhìn của Jim, người bạn đồng hành của Huck bị bắt làm nô lệ trong chuyến du lịch mùa Hè. Trong James, Percival Everett đã trao cho nhân vật của Jim một tiếng nói mới, minh họa cho sự phi lý của chế độ chủng tộc thượng đẳng, mang đến một góc nhìn mới về hành trình tìm kiếm gia đình và tự do.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.