Hôm nay,  

Ơn Trong Từng Phút Giây

29/11/202400:00:00(Xem: 3445)

Hình AI vẽ

Ảnh do AI tạo với sự hỗ trợ của ChatGPT từ OpenAI.


Một người bạn nói với tôi rằng có những bài thơ hoặc những đoạn văn nằm hoài trong đầu của mình từ hồi còn nhỏ, nên khi được nhắc tới thì tự động tuôn ra. Tôi thấy có lý.

Mỗi khi có dịp nói chuyện với ai về lòng biết ơn, tôi cứ như theo quán tính, chia sẻ một bài thơ ngày xưa tôi học ở bậc Tiểu Học. Không hiểu vì sao! Vì mình có tính hoài cổ? Hay vì đầu óc tuổi nhỏ dễ khắc ghi? Hay vì đây là bài học bắt buộc trong sách giáo khoa? Hay chỉ đơn giản là vì bài thơ có lời lẽ giản dị mà sâu sắc? Bài thơ như sau:

Giấc Mộng (1)

Nằm mộng thấy nông phu lại bảo:
“Ra công làm kiếm gạo từ đây
Tao thôi chẳng có nuôi mầy
Phải lo trồng trọt cấy cày cho siêng”
Người dệt cửi dặn mình làm áo
Chú thợ hồ lại bảo cầm bay
Bơ vơ chẳng kẻ đoái hoài
Tôi mang thơ thẩn đọa này cùng nơi.
Tôi túng thế vái Trời cứu thử
Lại thấy kia sư tử trên đàng
Tỉnh ra, thấy sáng, mơ màng
Tiểu công hút gió, rộn ràng trên thang.
Nghe máy dệt rần rần tiếng chạy
Ruộng đâu đâu cũng cấy đã xong
Phận mình nghĩ lại thong dong
Mới hay dưới thế ai không nhờ người.
Từ ngày rõ cuộc đời đắp đổi
Cám thương người xã hội như nhau
Dập dìu kẻ trước người sau
Sức riêng một ít giúp vào lợi chung.

(Nguyễn Ngọc Ẩn)

Bài thơ không hề có chữ “biết ơn” hay “cám ơn”, nhưng mặc nhiên đã dạy chúng ta ghi nhớ những gì mà mỗi người chúng ta được hưởng hàng ngày, không phải đương nhiên, mà là do công sức của biết bao người, của biết bao nghề. 

Trong kho ký ức của tôi, âm thanh lưu lại khá sâu đậm có lẽ là tiếng “leng keng” ngày xưa. Tiếng leng keng phát ra từ chiếc xe vận tải lấy rác. Đi học sáng sớm, nghe tiếng leng keng trước khi nhìn thấy chiếc xe to tướngCòn trong các con hẻm, những người phu đổ rác làm công việc của mình, vất vả nắng mưa. Ở xứ mình hiện nay cũng vẫn còn cảnh người lấy rác mỗi ngày gom những bịch rác trước từng nhà cho vào chiếc xe nhỏ của mình rồi đem ra đường lớn. Thường đó là những chiếc xe ba bánh cũ kỹ, ọp ẹp. Sẽ vẫn luôn có cảnh ấy, vì vẫn còn những xóm nghèo, những khu ổ chuột, nhà mọc chen chúc, với lối đi bề ngang chỉ vừa cho một hay hai chiếc xe đạp. Ở những xứ tiến bộ, mọi việc đều được cơ giới hóa, người công nhân vệ sinh ít khi phải ra khỏi xe. Họ có phương tiện bảo vệ cá nhân tốt hơn. Công việc nâng các thùng rác, đổ rác vào thùng xe lớn, trả thùng rỗng lại chỗ cũ… tất cả đều do máy làm. Nhưng mỗi khi nghe tiếng máy xe chạy vào sáng sớm một ngày cố định trong tuần, có lẽ không ít người cảm thấy nao lòng như tôi, vì khi mình còn nằm trong chăn ấm thì họ, những người công nhân, đã phải ra đường làm việc rồi!

Sao tôi lại nói về chuyện đổ rác nhiều như vậy? Có lẽ vì đó là bài học sống khá sâu sắc cho tôi khi nghĩ về ơn đời, mà những khía cạnh của cuộc sống đã được bài thơ “Giấc Mộng” hầu như đã nói lên đầy đủ.

Trong mọi sinh hoạt của chúng ta, ơn hiện diện hàng ngày. Ơn chỉ được gọi là “ơn” khi chúng ta biết nó. Và từ sự “biết ơn” đi đến “cám ơn” còn có một khoảng cách. Người phương Tây nói “cám ơn” rất dễ dàng, để tỏ lòng biết ơn thật sự cũng có, vì lịch sự cũng có. Có người trách người Việt không biết cám ơn, điều này thật oan. “Văn hóa biết ơn” luôn có, được minh chứng qua cách giáo dục ở nhà và ở trường. Tuy nhiên, để biểu lộ thành lời “cám ơn”, quả thật có chút khác với “văn hóa cám ơn” của người phương Tây.

Biết ơn không chỉ một ngày, một mùa. Bởi ơn đời đến với chúng ta trong từng phút giây. Nhưng nói ra được, bày tỏ được, càng hay hơn nữa. Người bán cám ơn người mua, người mua cám ơn người bán, dễ thương vô cùng!

Một bác người Việt, sống ở Mỹ, luôn giữ ý kiến cho rằng người Mỹ cám ơn hay xin lỗi chỉ là “đầu môi chót lưỡi” chứ không thật lòng. Cũng hơi oan cho người Mỹ. Nếu không có cái gọi là “đầu môi chót lưỡi” đó, cuộc sống sẽ đáng chán lắm. Tưởng tượng nếu mình vào ăn trong một tiệm, khi đi ra, thực khách nói “cám ơn” nhưng chỉ nhận lại những đôi mắt nhìn mình trơ trơ mà không có tiếng “cám ơn” thì chắc là buồn lòng lắm, và chắc cũng sẽ không muốn trở lại tiệm ăn này.


Chữ “tạ ơn” trong tiếng Việt rất hay. Định nghĩa chữ “tạ” trong Tự điển của Hội Khai Trí Tiến Đức (đầu thế kỷ 20) cho thấy “tạ” là “có lời nói với ai để cám ơn hay xin lỗi.” Như vậy đã rõ, từ biết ơn đến tạ ơn, có một khoảng cách. Khoảng cách đó ngắn hay dài, còn tùy vào mỗi người.

Trong gia đình, thường người ta có tâm lý cho rằng những gì người thân làm cho mình là chuyện đương nhiên, nên lời cám ơn ít khi được nói ra. Thật hơi tiếc! Ơn không chỉ là những gì to tát, thậm chí trừu tượng. Ơn là những gì chúng ta làm cho nhau rất bình thường. Một tách trà, một cốc cà phê để sẵn mỗi buổi sáng, một bữa ăn ấm áp gói ghém mang đi… cũng xứng đáng nhận lại một lời cám ơn.

“Cơm cha, áo mẹ, chữ thầy” là đạo lý “biết ơn” của người Việt. Nếu không được đến trường, đó là nỗi bất hạnh lớn. Được đến trường, và lại được hưởng một nền giáo dục “nhân bản, dân tộc và khai phóng” là một đại phước.

Một bác người Việt khuyên con cháu rằng:

“Biết ơn, không chỉ “nói” mà còn chứng tỏ bằng hành động. Biết ơn cha mẹ, người ta thường sống cho thật tốt để không uổng công cha mẹ sinh dưỡng mình. Biết ơn thầy, thì hãy làm những việc có ích cho xã hội để khỏi phụ công thầy dạy dỗ. Vợ chồng, anh em biết ơn nhau thì trân quý nhau vì chỉ sống với nhau một kiếp. Biết ơn người chiến sĩ thì xin đừng làm tủi nhục màu cờ đất nước và bộ quân phục cao quý của họ!”

Người Việt tha hương còn có quê hương thứ hai hoặc thứ ba trên đường đi tìm tự do. Những người cưu mang, giúp đỡ mình, họ không cần sự đền đáp, trả ơn. Cũng như người Việt mình nói “thi ân bất cầu báo” vậy. Đổi lại, khái niệm “pay it forward” khiến chúng ta làm những việc tốt đẹp cho những người khác, như một cách trả ơn cho ân nhân của mình. Biết ơn quê hương thứ hai hay thứ ba này, không chỉ đóng thuế là đủ, mà còn phải gìn giữ những giá trị cao đẹp, như tự do, dân chủ, công chính, công bằng…của đất nước mình đã chọn đến.

Từ một câu trong bài thơ khá dài “On Love” của nhà thơ, họa sĩ Kahlil Gibran (người Mỹ gốc Lebanon, 1883-1931), được dịch sang tiếng Việt (xin lỗi, người viết chưa biết chính xác tên của dịch giả):

 “…Wake at dawn with a winged heart and give thanks for another day of loving…”
“Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Tôi có thêm ngày nữa để yêu thương”

Nhiều người “pay it forward” qua việc hiến tặng tiền bạc, vật phẩm, thức ăn cứu giúp người nghèo; qua việc tặng tóc, hiến máu, hiến nội tạng, hiến thân xác cho khoa học. Đó là những cách Cám Ơn Đời.

Chúng ta vẫn không quên thời đại dịch COVID-19, trận dịch đã giết chết hàng triệu người trên thế giới. Lòng biết ơn của chúng ta càng đặc biệt sâu nặng dành cho những nhân viên y tế ở tuyến đầu, những người cứu chữa bệnh nhân. Có khi họ hy sinh bằng cả mạng sống của chính mình. Xin tri ân các nhà khoa học nghiên cứu tìm thuốc chữa bệnh và vaccine, các tình nguyện viên tham gia thử nghiệm để có được vaccine an toàn và hiệu quả. Những ngày “shelter-in-place” càng làm chúng ta vô cùng biết ơn những người đã hy sinh cung cấp các dịch vụ thiết yếu hàng ngày như thực phẩm, nước sạch, bưu điện; những người giao hàng, những người làm công việc vệ sinh v.v… Chưa hết, trong thiên tai như cháy rừng, bão lụt, chúng ta còn nhận ơn từ những người lính cứu hỏa, nhân viên cứu nạn, tình nguyện viên khắp nơi… Kể sao cho hết Ơn Đời!

Tôi nhớ lại hình ảnh một em bé còn nhỏ xíu, với ánh mắt của bé nhìn mẹ khi được mẹ cho bú. Đó là ánh mắt tỏa ra sự sung sướng, thỏa mãn, và biết ơn. Nhưng tôi nghĩ, lòng biết ơn không đơn giản là bẩm sinh, mà còn đến từ sự giáo dục, đi vào trí óc, từ đó, chiếu rọi vào mạch tim.

 Cam Li Nguyễn Thị Mỹ Thanh
 (1) Còn có tựa là “Giấc Mộng Kinh Hoàng”
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.