Hôm nay,  

Cái tên Khánh Trường!

02/01/202509:03:00(Xem: 3343)
Tưởng niệm Khánh Trường

KTrg
Từ trái: Trần Yên Hòa, Khánh Trường, Thành Tôn.

Thật ra, trước 1975, tôi cũng đã đọc nhiều sách, nhiều tạp san văn học ở Sài Gòn, (hay tỉnh lẻ), tôi chưa đọc đến tên Khánh trường, biết tên Khánh Trường. Tên đó (hay bút danh đó) hoàn toàn xa lạ đối với tôi.

Cho đến, đầu năm 1995, tôi sang Mỹ. Qua Mỹ chân ướt chân ráo, còn lạ lẫm đủ thứ, may nhờ anh Ngô Kỷ, một người học trò cũ của tôi (tôi dạy kèm Ngô Kỷ, nên tạm gọi vậy), dẫn dắt và giới thiệu tôi vào làm công cho một nhà in trên đường Bolsa, gần Bưu Điện Bolsa...Công việc là làm lặc vặc đủ mọi chuyện, nghĩa là đụng đâu làm đó, sai đâu làm đó...Tôi quên tên nhà in nhưng nhớ chủ nhà in tên là Phú.

Đây là nhà in in tạp chí Hợp Lưu...Những lúc rảnh rổi (chút xíu), tôi có đọc "ké" Hợp Lưu mới được in ra. Phải nói là tôi rất thích. Đó là lần đầu tiên tôi tiếp xúc với văn học hải ngoại. Qua Hợp Lưu, tôi biết người chủ trương Hợp Lưu là Khánh Trường.

Thường, Khánh Trường ra nhận Hợp Lưu khi vừa in xong, rồi chở trên một chiếc xe truck. Biết vậy, nên tôi tới gặp Khánh Trường và nhờ anh cho biết địa chỉ của nhà văn Trần Hoài Thư, người thầy dạy cũ của tôi. Khánh Trường về nhà và ghi địa chỉ của thầy Trần Hoài Thư đem ra cho tôi. Nhờ vậy tôi đã liên lạc lại được với người thầy mà tôi quý mến.

Đọc "ké" mấy tập Hợp Lưu, rất hay, văn hay, thơ hay, biên khảo hay, nhưng (lúc đó) tôi vẫn thấy có một điều gì gợn gợn trong tôi, có một vài ý kiến bất đồng. Nghĩa là, tôi mới ở VN sang, sau 20 năm sống trên đất nước VN cộng sản. Dĩ nhiên tôi không quên được những ngày tù khổ sai, làm việc cưỡng bách trong các trại cải tạo. Nay mới được nhìn lại lá cờ vàng ba sọc đỏ đến ứa nước mắt...Thế mà hợp lưu (với cờ đỏ sao vàng) sao được đây hở trời! Cho nên tôi cảm thấy rờn rợn, gai góc đầy mình là vậy...

*

Cái tên Khánh Trường, theo Khánh Trường nói sau này, lúc anh sinh ra,  cha mẹ anh đang tản cư ở xã Trường Xuân, làng Khánh Thọ, huyện Tam Kỳ, Quảng Nam. Anh sinh ra ở địa phương này,  nên cha mẹ anh đặt tên anh là Khánh Trường (Khánh Thọ, Trường Xuân)...Cùng huyện Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam với tôi, nên sau này quen nhau, tôi thường nhân đó mà nhận Khánh Trường là đồng hương, dù Khánh Trường ít khi nhắc tới quê của mình, nói rằng lớn lên anh đi cùng nơi chi xứ.

Theo tôi, Khánh Trường thành danh ở hội họa nhiều hơn ở văn học (văn, thơ). Tranh anh có màu sắc, có bố cục, nhất là những tranh  về thiền...Xem tranh của Khánh Trường tuy không hiểu nhiều nhưng mình tự thấy như đang ở một thế giới nhẹ tênh...

Và nữa, Khánh Trường làm chủ biên tạp chí Hợp Lưu rất xuất sắc, anh biết chọn bài hay, trình bày sách đẹp và lôi kéo được một số nhà văn, nhà thơ, nhà biên khảo cộng tác có giá trị, có cả những nhà văn, nhà phê bình nỗi  tiếng ở trong nước cộng tác. Đó cũng là một thành công.

Nhiều khi cái thành công đó, khiến Khánh Trường có vẻ cao ngạo, ngông nghênh...Dù tôi biết trước bảy lăm, anh chỉ là một người lính nhảy dù (không là sĩ quan) và tôi tự lý luận, là lính trơn nên Khánh Trường chắc cũng không có bằng cấp gì về văn hóa, (chứ có tú tài 1 đã đi sĩ quan rồi). Nên khi có chút tiếng tăm về hội họa, văn học Khánh Trường  có sự cao ngạo, ngông nghênh, đó có phải để khỏa lấp chuyện đi "lính trơn" của mình không?

Một vài kỷ niệm

Không nhớ vào năm nào, tháng nào, hình như khoảng 2012..., nhà thơ Thái Tú Hạp & Ái Cầm tổ chức Ra Mắt Sách cho các tác giả: nhà thơ Hoàng Lộc, nhà văn Lâm Chương,  nhà thơ Phan Xuân Sinh, nhà thơ Đức Phổ tại Little Sài Gòn. Các tác giả ở các tiểu bang thật xa về đây Ra Mắt Sách...Buổi Ra Mắt Sách rất vui, tạm coi như thành công.

Tôi thấy đây là dịp rất hiếm để các anh em văn nghệ gặp nhau. Ở chỗ Ra Mắt Sách thì đông người, nên không nói chuyện được nhiều... Tôi bèn có nhã ý mời các bạn văn đến nhà tôi nhậu chơi một bữa. Tôi ngõ ý với nhà thơ Thành Tôn, anh đồng ý, nên buổi chiều hôm sau đó, tại nhà tôi có mặt nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng, Phùng Nguyễn, Thành Tôn, Khánh Trường, Hà Nguyên Du, Lâm Chương, Phan Xuân Sinh, Đức Phổ...(hình như có thêm Đặng Hiền, Nguyễn Nam An, và cô Thúy Vân Nguyễn Thị Mắt Nâu)... thiếu Hoàng Lộc vì Hoàng Lộc bận với người yêu thơ anh..

Đây là lần đầu tiên ngồi nhậu với Khánh Trường. Khánh Trường lúc này còn khỏe, da dẽ hồng hào...uống rượu rất bạo.

Lúc này Hà Nguyên Du in một tập thơ, có nhờ Khánh Trường vẽ bìa. Khánh Trường có một tranh mẫu bìa đã gởi cho cô Bích Xuân tại Pháp, làm bìa tập thơ của cô. Nhân chuyện gấp gáp nên Khánh Trường gởi tranh bìa này cho Hà Nguyên Du làm bìa luôn tập thơ của HND. Không biết do đâu mà Hà Nguyên Du biết tranh bìa tập thơ của mình trùng với bìa với một cuốn sách của Bích Xuân, Hà Nguyên Du đem chuyện này ra phàn nàn (lèng èng) với Khánh Trường và anh em trong chiếu rượu. Khánh Trường đang hơi men nên đã tức khí ném cái ly rượu đang uống vào mặt Hà Nguyên Du. May mà chiếc ly đi chệch đích.

Chuyện sau đó trở thành không vui, Phùng Nguyễn phải chở anh Nguyễn Xuân Hoàng ra phi trường để về San Jose, và mọi anh em có mặt đều buồn, từ từ lục tục ra về.

Nghe nói sau vụ đó, Khánh Trường về bị trock...Thời gian sau anh nằm trong một nursinghome, tôi có đến thăm...

*

Sau này có nhiều dịp tôi gặp Khánh Trường. Tôi đến nhà Khánh Trường nhờ anh cho mượn tranh để triển lãm trong Ngày Họp Mặt Liên Trường Quảng Nam Đà Nẵng và Ngày Họp Mặt cựu học sinh trung học Trần Cao Vân Tam kỳ. Mỗi lần đến nhà anh mượn tranh,  Khánh Trường và chị Oanh đều nhiệt tình cho mượn (...kể các các họa sĩ Hồ Thành Đức, Nguyễn Đình Thuần cũng vậy).

Đó cũng là một kỷ niệm rất đẹp.

Bây giờ thì các anh Nguyễn Xuân Hoàng, Phùng Nguyễn, Phan Xuân Sinh đã mất, nay đến lượt Khánh Trường...Thật buồn thay!

Nhớ lắm Khánh Trường ơi!
Chúc bạn  ra đi thanh thản!
 

-- Trần Yên Hòa

Anaheim, 28-12-2024

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nếu hỏi tên một tác giả đương thời có nhiều đầu sách, được nhiều tầng lớp độc giả ở mọi tuổi tác thích đọc lẫn ngưỡng mộ và có nhiều bạn bè quý mến, có lẽ trong trí nhiều người sẽ nghĩ đến Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc. Thật vậy, ông có khoảng 60 đầu sách thuộc loại Văn chương, Y học và Phật học; đáp ứng cho nhiều độ tuổi, thường được trưng bày ở các vị trí trang trọng trên các kệ của các nhà sách, thuộc loại best seller, được xuất bản tái bản nhiều lần như “Viết Cho Các Bà Mẹ Sinh Con Đầu Lòng”, “Gió Heo May Đã Về”, “Nghĩ Từ Trái Tim”, “Gươm Báu Trao Tay”... Đó là chưa kể những buổi chia sẻ, đàm đạo, thuyết giảng của ông về sức khỏe, nếp sống an lạc, thở và thiền, v.v... qua những phương tiện truyền thông khác.
Trong một tiểu luận về văn chương Franz Kafka, Milan Kundera đã bắt đầu bằng một câu chuyện có thật xảy ra trên xứ Tiệp Khắc, quê hương ông, dưới thời đảng Cộng sản còn cai trị đất nước này. Một anh kỹ sư được mời sang thủ đô London, Anh quốc để tham dự một hội nghị chuyên ngành. Hôm trở về nhà vào văn phòng làm việc, anh lật tờ báo mới phát hành sáng hôm đó và đã giật bắn người vì trên báo loan tin một kỹ sư người Tiệp sang London dự hội nghị đã xin tị nạn chính trị ở lại Tây phương. Nên nhớ đó là cao điểm căng thẳng của cuộc Chiến tranh Lạnh toàn cầu, đối với các quốc gia trong khối Cộng sản, tị nạn chính trị có nghĩa là phản quốc, là trọng tội mang án tử hình. Anh kỹ sư nọ đã vô cùng hoảng hốt khi đọc bản tin trên báo.
Khi một tác giả hoàn tất xong một bản thảo của một tác phẩm mới, câu hỏi đầu tiên có lẽ tác giả sẽ tự nêu lên rằng: ai sẽ đọc những dòng chữ này của mình? Hẳn là Thầy Tuệ Sỹ cũng có suy nghĩ như thế khi hoàn tất bản thảo tác phẩm “Lý Hạ: Bàn Tay Của Quỷ” vào ngày 19/1/1975. Xin chú ý con số rất tiền định: 1975. Người viết đã hình dung ra hình ảnh Thầy Tuệ Sỹ đứng nơi Thư Viện Đại Học Vạn Hạnh nhìn ra sân trường, khi Thầy vừa hoàn tất tác phẩm trên khoảng gần nửa thế kỷ trước. Thầy Tuệ Sỹ đã suy nghĩ gì khi cất bản thảo trên vào một góc kệ sách và rồi đời Thầy sẽ không còn thì giờ để mở ra xem nữa? Những gì đời sau biết về nhà thơ Lý Hạ của Trung Hoa không nhiều như các nhà thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Tô Đông Pha, Lý Thương Ẩn... Nhà thơ Lý Hạ tuổi thọ chỉ khoảng 25 hoặc 26 hoặc 27 tuổi. Năm sinh của Lý Hạ mơ hồ: tiểu sử trên Wikipedia ghi rằng họ Lý sinh năm 790 hoặc 791.
Đêm sông Hậu, trăng khuyết chiếu mờ mặt sông, sóng ì ọp vỗ mạn thuyền. Đôi khi một bầy chim ăn đêm bay qua sát đầu chúng tôi, cánh chúng xòe ra trong trăng. Đôi khi những con dơi bay chập choạng trong tối như những linh hồn người chết trở lại thăm bạn cũ. Chúng tôi thì thào vào tai nhau những câu chuyện nghe được từ dân làm nghề sông nước. Có lúc sự kiểm soát không gay gắt lắm, chúng tôi được phép lên sàn thuyền ngồi hóng gió. Đôi khi một chiếc ghe nhỏ đi ngang qua, ông chủ thuyền kêu lại mua thêm thức ăn. Không khí ngày tết rộn ràng, tiếng hò trên sông, tiếng máy thuyền, tiếng mua bán nói cười ầm ĩ vọng lại từ một đời sống nửa thực nửa mơ. Một người phụ nữ ngồi trên thuyền vá lại chiếc áo rách cho chồng, như thể chị đang ngồi trong một căn bếp ở thôn xóm an bình nào đó
“Làm nghệ sĩ là một lời cam kết với đồng loại rằng những vết rách của kiếp sống sẽ không biến ta thành kẻ sát nhân,” Louise Bourgeois từng viết trong nhật ký thuở thiếu thời. “Những kẻ làm thơ — tôi muốn nói: mọi nghệ sĩ — rốt cuộc là những kẻ duy nhất biết sự thật về chúng ta,” James Baldwin từng viết ở tuổi ba mươi, “…không phải binh lính, càng không phải chính khách… chỉ có thi sĩ.” Và sự thật ấy, cách ta yêu, cách ta cho đi, và cách ta chịu đựng –là chính bản thể của ta.
Tờ Việt Báo Kinh Tế số 28 ngày 13 tháng 2 năm 1993 có đăng bài thơ “Lửa, Thấy Từ Stockholm” của nhà thơ Trần Dạ Từ, nhân tuần lễ nhà văn Thảo Trường thoát khỏi nhà tù lớn đến định cư ở Hoa Kỳ. Đây là bài thơ Trần Dạ Từ viết từ 1989 rời Việt Nam, khi được các bạn Văn Bút Thụy Điển mời ăn cơm chiều, Ông nhớ đến bạn còn ở trong tù khổ sai dưới chân núi Mây Tào, Hàm Tân. 33 năm đã trôi qua kể từ ngày chúng ta chào đón nhà văn Thảo Trường đến Hoa Kỳ, 15 năm kể từ ngày Thảo Trường từ bỏ thế gian, Chiều Chủ Nhật tuần này, 22 tháng Sáu, nhân dịp tái xuất bản bốn cuốn sách của Thảo Trường (Hà Nội, Nơi Giam Giữ Cuối Cùng; Người Khách Lạ Trên Quê Hương; Ngọn Đèn; Lá Xanh), bạn bè văn hữu và gia đình cùng tề tựu tưởng nhớ Nhà Văn. Việt Báo trân trọng mời độc giả cùng đọc, cùng nhớ nhà văn lớn của chúng ta, một thời, một đời.
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Theo một ý nghĩa nào đó, Farrington đóng vai trò là một kiểu người có thể thay thế hoặc tồn tại ở bất cứ đâu, có thể là một nhân vật đặc trưng nào đó nhưng cũng có thể là một người bình thường. Bằng cách chọn chủ thể như thế, Joyce đưa Farrington vào bối cảnh đường phố Dublin và gợi ý rằng sự tàn bạo của gã không có gì là bất thường. (Lời người dịch).
Thông thường người ta thỏa thuận những tác phẩm và những tác giả đó thuộc về văn học bản xứ với phụ đề “gốc Việt.” Thỏa thuận đó đặt cơ bản trên ngôn ngữ, có tên gọi “ngôn ngữ chính thống”, còn tiếng Việt là “ngôn ngữ thiểu số.” Tất cả những ý nghĩa này được nhìn thấy và định nghĩa từ những người bản xứ của ngoại ngữ. Còn người Việt, chúng ta nhìn thấy và nghĩ như thế nào? Hai tập thơ tiếng Hán của Nguyễn Du, thuộc về văn học Trung Quốc hay Việt Nam? Những bài viết, sách in tiếng Pháp, tiếng Anh, tiếng Latin của các học giả và các linh mục dòng tên, thuộc về văn học nào?
Đứa trẻ đi học bị bạn bè bắt nạt ở trường về nhà mét mẹ, một đứa trẻ bị trẻ con hàng xóm nghỉ chơi, về nhà mét với mẹ, cô con gái bị người yêu bỏ về tâm sự với mẹ, v.v., nói chung những đứa trẻ cần bờ vai của mẹ, bờ vai mẹ là nơi các con nương tựa. Con cái thường tâm sự với mẹ về những phiền não hàng ngày hơn tâm sự với cha. Ngày của mẹ là ngày tưng bừng, náo nhiệt nhất. Cha thường nghiêm nghị nên trẻ con ít tâm sự với cha. Nói như thế, không có nghĩa là trẻ con không thương cha? Không có cha làm sao có mình, cho nên tình thương cha mẹ cũng giống nhau, nhưng trẻ con gần mẹ hơn gần với cha. Khi đi học về, gọi mẹ ơi ới: mẹ ơi, con đói quá, mẹ ơi, con khát quá, mẹ ơi, con nhức đầu, mẹ ơi,... Tối ngày cứ mẹ ơi, mẹ ơi. Nhất là những đứa trẻ còn nhỏ, chuyện gì cũng kêu mẹ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.