Hôm nay,  

Quên Với Nhớ…

07/03/202500:00:00(Xem: 2993)
 
Ai cũng có những hoài niệm mang theo cả cuộc đời, hoài niệm ngày càng nhiều theo tuổi tác dâng lên, người may mắn có nhiều hoài niệm vui hơn buồn để khi chợt nhớ thấy lòng vui vui. Ai cũng có những ước mơ thầm kín để khi hoài niệm thấy mình còn là người, giả như ước mơ cho người yêu cũ có cuộc sống hạnh phúc. Điều ấy nói ra ai tin nên xếp vào ước mơ thầm kín, còn những ước mơ nói ra được chỉ là hoang tưởng nhất thời như thấy chiếc xe đẹp lướt qua, ước gì mình có chiếc xe ấy. Nhưng giả sử ngày mai trúng số, có tiền mua chiếc xe ấy thì ước mơ nói ra được hôm qua đã thay đổi thành chiếc xe mắc tiền hơn nữa và đẹp hơn nữa vì là chiếc xe của hôm nay, của người mới trúng số. Khác với ước mơ thầm kính vui buồn riêng mang coi vậy mà theo ta như hình với bóng, càng thầm kín càng bền lâu sau nỗi buồn chia xa đã gặm nhấm tâm can theo tháng ngày, nghe tin người xưa không hạnh phúc thì nỗi buồn tăng lên gấp đôi nhưng nói ra ai tin trong trời đất bao la này…
  
Trong cuộc sống hạn hẹp thời gian riêng tư, bỗng chợt nhớ đến một kỷ niệm đẹp sẽ vơi bớt muộn phiền khi hồi tưởng lại kỷ niệm đẹp đó. Có những kỷ niệm đẹp đến không thể nào quên nên người ta hoài niệm để trốn chạy bế tắc đang hiện tại. Tôi không nghiên cứu nhưng thỉnh thoảng đọc được những trang sách nói về tâm lý, về vô thường, lẽ vô thường trong trời đất, tôi thường đọc hết trang sách để hiểu biết thêm một khía cạnh không hiện diện nhưng hiện hữu trong đời người, trong đời sống ngày càng nhiều người bạn lớn tuổi hơn năm ngoái, năm trước nên họ thường nói, “già rồi, nhớ chi nhiều cho mệt…” Ý rằng, lớn tuổi rồi thì chuyện vui hay buồn cũng đã qua, để bụng làm gì cho khổ mình như mưa mùa trước nhiều nước hơn mưa mùa này hay mưa mùa này nhiều nước hơn mưa mùa trước cũng chẳng khác gì người yêu lần trước tha thướt hơn người yêu lần này, người yêu lần này bầy hầy hơn người yêu lần trước… thì trước sau gì cũng còn có mấy ông già ngồi cả phê tán gẫu với nhau cho hết qũy thời gian còn lại. Ai cũng nói tôi vui tính, tôi hài hước, nhưng ủ rũ được gì ngoài gương mặt xấu bẩm sinh còn xấu tệ hơn già đi chưa đủ sao lại còn buồn vu vơ…
  
Bàn cà phê sáng nay có ông bạn mới nhất của tôi nhưng lại già nhất. Ông bạn ngồi như củi mục trong rừng chưa thay lá.  Ông như hiện tượng siêu nhiên, vô nhiễm, miễm cảm với hoàn cảnh và tuổi tác làm tôi hay nghĩ đến những trang sách vô thường mà tôi từng đọc, cảnh giới vô thường không như cảnh giới siêu giàu là mua được nhiều thứ trên đời, người thấm thía vô thường không hỷ nộ ái ố như phàm tục, bình tâm trước được mất thì xá gì bon chen… Nhưng hãy nói về ông ấy đã, khá lâu rồi, tôi thấy ông vô làm thì biết là người mới nhưng không làm chung nên có gặp mặt thì chào buồi sáng nhau thôi. Lời chào buổi sáng của ông dành cho tôi chắc không vương sầu như lời chào của tôi dành cho ông vì cảm nghĩ trong tôi, “Tội nghiệp quá. Già khú còn phải đi làm.” Tôi đoán ông tám mươi tuổi là có chứ không nói thách đâu, tóc không còn được sợi nào đen, dáng ông gầy người, da trắng xanh, đi đứng chậm chạp theo tuổi tác, chỉ được ông ăn mặc tươm tất, sạch sẽ  nên dễ nhìn. Tôi buồn hiểu được chứ tôi không buồn không hiểu vì sao tôi buồn như thơ Xuân Diệu, tôi biết mình buồn vì nghĩ đến tương lai.
  
Rồi thiên biến vạn hoá còn trở ngại thì nói gì phong thủy không tai biến, sếp đưa ông đến chỗ tôi làm việc, sau hai nơi đã chê ông già yếu, chậm chạp. Tôi biết nói gì hơn là khen ông làm giỏi vì ai được khen chả cố gắng hơn để xứng đáng với lời khen, để chứng tỏ mình. Nhưng mấy ai trong trời đất biết tự lượng sức mình thì tôi là một! Lão ông này đã thành tinh, tôi mới tiểu qủy mà đòi múa rìu qua mắt thợ. Lão nói với tôi, “Anh đừng có giả vờ khen tôi giỏi cho tôi cố gắng làm việc, được mấy hôm tôi hết sức sẽ tự nghỉ việc chứ gì?!”
  
Kinh thật, tôi nói với ông, “Tôi biết rồi, biết người biết ta, bán nhà bỏ việc. Tôi xin đi chỗ khác, nhưng anh liệu kham nổi việc ở đây không?”
 
“Bố tôi sống lại cũng không nhớ hết việc ở đây, toàn máy móc với computer điều khiển. Hồi máy đứng tôi chả biết bấm nút nào cho nó chạy lại. Nó báo trục trặc gì đó trên màn hình thì có biết tiếng Anh đâu mà đọc…”
 
“Vậy anh làm ở đây là đúng việc rồi, vì tôi làm ở đây, màn hình nói gì tôi đọc được hết nhưng có hiểu gì đâu? Máy đứng thì gọi sếp, sếp đứng mỏi giò thì gọi kỹ sư. Mình đâu có ăn lương kỹ sư mà lo, sếp cũng không ăn lương kỹ sư, nên hãng này thay kỹ sư như thay áo còn đuổi việc công nhân thì hiếm như ly dị. Nên anh thấy ai cũng mấy chục năm thâm niên, chung tình với hãng đến động lòng…”
  
“Tôi không tin. Anh buông máy này bắt máy kia. Tôi đâu có mù.”
  
“Là tự anh nói anh có thị lực tốt đó nha, bây giờ tôi cần thị lực tốt của anh. Lỗi tại tôi không đọc mã số trước khi trút túi nylon ốc tán vào hộp. Hai loại ốc tán giống nhau y chang nhưng răng khác nhau, cái răng nhuyễn, cái răng thưa. Tôi trút nhầm hộp đựng rồi, bây giờ anh tỏ mắt thì ngồi lựa ra cho tôi. Mọi việc tôi lo.”
   
“…”
  
Lão vui vẻ làm việc, không một lời cự cãi. Tôi quên dặn lão thấy sếp đến thì lờ việc nhặt thóc ấy đi, giả vờ làm việc khác. Nên bà sếp đến tôi cũng không hay, bà bắt được lão đang nhặt thóc… Bà xử ngay vì tính bà cũng kỹ lưỡng lắm, “Ông phải đọc mã số trước khi cho vào hộp để xài. Ông còn phải lấy một con cũ trong hộp ra so với con mới xem có giống nhau không rồi hãy cho chung vào…”
  
“Xin lỗi bà. Tôi là người mới chưa có kinh nghiệm này. Xin cho tôi khoảng nửa giờ để lựa ra… Tôi sẽ nhớ việc này.”
  
“OK, nhưng lần sau ông phải cẩn thận.”
   …
  
Sếp đến để hỏi tôi việc hôm qua nên tôi theo bà đến nơi tôi đã làm xong cho bà lấy số liệu. Trên đường đi, bà hỏi tôi, “Ông ấy làm việc được không?”
  
“Ông này được. Để ông ấy làm với tôi, bà đừng đưa ông ấy đi đâu nữa...”
  
“Bạn chắc?”
  
“Chắc chắn. Thưa bà…”
  
“Đã hai chỗ…”
  
“Tôi biết rồi, nhưng bà nghĩ thử xem, ông ấy vừa nhận lỗi với bà, xin lỗi bà, nhưng là lỗi của tôi. Những người như thế đã rất hiếm…”
  
  
Sếp tôi cười thấu hiểu, bà hiền lắm, tốt bụng nữa. Tôi không nói chơi đâu, bà là người phụ nữ da đen thuộc loại đẹp, nhưng bà làm hãng này đã ba mươi năm rồi, không chịu đổi hình thẻ vì ba mươi năm trước bà đẹp thật. Còn lão già thấy trời gió phải xuống hầm trú ẩn để thôi gió thổi bay là đồng hương của tôi đã làm với tôi được một tuần, tới một tháng mới ghê, bây giờ là khỏi chê vì sắp giáp năm lão rồi! Ai cũng đòi lão đãi tiệc một tuổi chưa bị đuổi nhưng không ai hiểu vì sao tôi với lão lại thân nhau. Nhớ hồi quen mặt rồi nên lão cũng thích đùa, đang làm bỗng ngưng tay hỏi tôi, “Tôi hỏi anh câu này: trên người mình, cái gì khi mình nằm thì nó đứng và khi mình đứng thì nó nằm?”
   
Tôi trả lời, “Anh muốn tôi trả lời theo lớp mẫu giáo hay ngoài quán nhậu?”
  
“Nói nghe thử…”
  
“Theo lớp mẫu giáo là bàn chân của anh, còn ngoài quán nhậu là con cu của anh…”
  
“…”
  
Lão già cười như được thuốc cải tử hoàn đồng, “…tôi ít hỏi vì thấy anh bận quá, nhưng tôi nghĩ anh cũng không vừa đâu, nghe anh nói chuyện với người khác cũng vui nhộn lắm. Tôi thật là biết và thích câu đố đó từ khi còn bé, ông tôi đố tôi và tôi nhớ đến bây giờ. Không ngờ có câu trả lời khác, nghĩ cũng không sai.”
  
“Vậy là anh cũng đâu có vừa.”
  
“…”
  
Tôi thương lão giang hồ khả kính sau câu lão xin lỗi sếp chứ không nói là lỗi của tôi, dù tôi đã nói trước với lão là lỗi của tôi. Khi hỏi lão, tôi nghe câu trả lời thật huynh đệ, “Tôi là người mới, bà ấy dẫn tôi đi thử việc hai nơi đều bị từ chối. Tôi tự nói với bà ấy là tôi về, tìm việc khác. Tôi làm phiền bà ấy đủ rồi! Nhưng bà ấy là một người tốt, nghe tôi nói vậy bà bảo tôi chờ chút, có thể ra phòng ăn ngồi chờ. Chừng mười phút sau bà ấy đến phòng ăn, đưa tôi đến chỗ anh. Trên đường đi bà ấy chỉ nói với tôi về anh là người cẩn thận, làm việc với anh phải chính xác, đừng làm ẩu là được. Tôi làm với anh thấy đúng như bà sếp nói. Anh không phiền trách tôi chậm, yếu… Anh giúp tôi, chỉ tôi tận tình, thì tôi nhận một lỗi cho anh cũng đáng mà...”
  
  
Nhưng lão cũng không ngờ là lão đã làm việc với tôi được cả năm qua rồi. Bạn già tính sáng, sáng vô hãng không thấy mặt thì phải coi chừng đóng tiền mua vòng hoa, đi vườn trẻ chơi thăm nhau lần cuối. Sáng cuối tuần nào còn đi uống cà phê với lão được thì mừng cuối tuần ấy vui. Tôi bắt đầu có cảm giác thiếu lão sau giờ làm, đã về nhà, đi ra nghe tiếng dép mình rồi lại đi vào theo tiếng dép mình; những lúc đi câu một mình phải như có lão đi cùng sẽ đỡ buồn lắm nhưng lão thật là không đủ sức theo tôi đi câu cá. Đã nhiều lúc một mình nhưng tôi có cảm giác đang trò chuyện với lão - lão ngoan đồng. Nhớ những lúc đang làm lão bồng hỏi tôi, đố tôi môt câu đố vui trẻ nhỏ mà lão vui thật. Lão đố tôi: “một cây mà có năm cành/ tưới nước lại héo để dành lại tươi là gì?” Tôi trả lời rằng tôi chỉ biết “năm thằng bóp cổ một thằng” thì lão không hiểu. Nhưng hôm khác lại đố, tôi trả lời là cánh tay cho lão vui. Lão vui thật như trẻ nhỏ. Lão hưng phấn bỏ việc đang làm để đố, “trái gì trong đỏ ngoài xanh/ ăn vào mát lạnh ngọt ngay như đường?” Khi thì tỉnh giấc ngủ gục là hỏi ngay, “Con gì tám cẳng hai càng/ không đi mà lại bò ngang cả ngày…?”
  
Hầu như cả ngày lão sống với tuổi thơ, không có ông lão tám mươi trong lão. Nên tôi mừng cho lão không có buồn khổ tuổi già còn phải đi làm. Già đương nhiên chậm, yếu, nhưng lão không có bệnh nhờ tâm thoát khổ nên không sinh tâm bệnh, nhờ thân thoát tục nên không thế bệnh hay sao, cứ liu riu sống như đèn cạn dầu chờ gió đông. Lão ngày càng đậm quên quên nhớ nhớ, đôi khi không nhớ việc mới làm, điều mới nói mà nhớ chuyện đời nào. Như có lúc hỏi hồi nhỏ anh sống ở đâu lại không nhớ, những mốc thời gian quan trọng trong đời người dường như lão không nhớ chứ không phải không muốn cho ai biết như đi lính năm nào, lấy vợ năm bao nhiêu tuổi, có mấy người con… lão nhớ lung tung, không trả lời lần nào giống lần nào. Chỉ nhớ mấy câu đố tuổi thơ ở trường làng, sống và vui với những câu đố ấy.
  
Ơn lão giúp tôi hiểu thêm câu thơ vô thường mà tôi từng đọc được, “đi qua chán vạn nẻo đường/ dừng chân đứng lại vô thường sau lưng…” Vô thường huyễn hoặc, kỳ bí trong kinh sách, thơ văn nhưng sống và làm việc với người bạn nhỏ tám mươi tuổi khiến tôi bớt âu lo vô bổ như mình từ đâu đến, rồi sẽ đi về đâu? Những suy tư màu chì chứ không màu hồng như lão vì tôi thường nghĩ về chuyện xưa, quá khứ, tương lai. Tôi hình dung ra một người không nhớ gì về quá khứ thì người ấy có thực sự còn sống hay không? Hay một người biết trước tương lai thì người ấy có nên sống tiếp hay không? Tại sao chúng ta buồn về quá khứ đã qua, chúng ta sợ tương lai chưa đến và hiện tại là nhân chứng sống càng đáng sợ khi chứng kiến từng người bạn đã không còn quá khứ, hiện tại, tương lai chỉ bởi một tin nhắn vừa nhận được.
  
Đúng là nhớ nhiều chi cho mệt, nhưng quên hết chắc gì có bạn đố vui để học, mới thấm thía giá trị của hiện tại…
 
Phan 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.