Hôm nay,  

‘Việt Nam của con, Việt Nam của cha’ hay Việt Nam của phân ly

4/4/202500:00:00(View: 3058)

Hình sách
Khi đọc được khoảng một phần ba quyển hồi ký “Việt Nam của con – Việt Nam của cha”, trong tôi thôi thúc mãnh liệt một suy nghĩ: đã đến lúc tôi cũng nên ngồi xuống để viết một quyển sách của chính mình trước khi quá trễ, hay nói đúng hơn là trước khi đầu óc tôi bắt đầu quên lãng nhiều cột mốc, nhiều câu chuyện, đặc biệt là nhiều cảm xúc đã từng có trong tôi, từng xảy ra trong đời tôi, kể từ lúc đặt chân đến đất nước này, nơi vừa gần gũi lại vừa lạ lẫm với tôi cho đến tận bây giờ.

Niềm thôi thúc đó hiện hình bởi những gì mà tôi đọc được trong “bản song tấu đặc biệt, lần đầu tiên xuất hiện trong văn đàn” như cách nói của nhà văn Eric Nguyễn, do hai tác giả, cũng là hai bố con Nghĩa Võ và Christina Võ chắp bút, đã thực sự cuốn hút tôi. Để rồi khi đọc được đến hơn một nửa quyển sách, tôi đã gọi phone cho Kalynh Ngô, người dịch nguyên tác “My Vietnam, Your Vietnam” sang tiếng Việt, và nói “Quyển sách hay đó, không biết do bản tiếng Anh thật sự hay hay do người dịch giỏi, mà đọc rất thú vị!” Đồng thời tôi hứa với Kalynh sẽ viết bài review sau khi đọc hết.

Điều đầu tiên níu giữ tôi không rời mắt khỏi những con chữ trong “Việt Nam của con – Việt Nam của cha” chính là những cảm xúc tinh khôi của Christina Võ trong lần đầu đặt chân lên quê cha đất mẹ Việt Nam, nơi mà cô “không bao giờ nghĩ rằng sẽ giữ một vị trí quan trọng” trong câu chuyện đời cô.

Tôi đi theo bước chân của tác giả Christina Võ, người được sinh ra tại một thị trấn nhỏ ở tiểu bang Connecticut, có bố mẹ là những người trốn chạy khỏi quê hương Việt Nam ngay và sau ngày đất nước thay tên đổi chủ, nhưng cô lại chưa bao giờ nghe họ nói bất kỳ điều gì về Việt Nam, thậm chí là không dạy cho chị em cô một chữ tiếng Việt nào, dù đơn giản nhất như “xin chào.” Chính vì thế, Việt Nam trong mắt nhìn, trong cảm nhận của Christina - cô gái 22 tuổi từng chối bỏ phần Việt Nam trong con người mình, từng giấu đi chai nước mắm hay tương ớt Sricacha khi có bạn đến nhà chơi để không muốn mình trông dị biệt  - mang một sắc màu khác hẳn. Đó là sắc màu tôi từng tìm kiếm, từng muốn nghe ai đó mô tả, nhưng chưa có duyên bắt gặp. Những dòng hồi ký của Christina Võ trong “Việt Nam của con, Việt Nam của cha” đã mô tả, đã kể cho tôi nghe điều tôi từng muốn biết đó.

Điều níu giữ tôi không rời mắt khỏi những con chữ trong “Việt Nam của con – Việt Nam của cha” còn là mối ưu hoài, khắc khoải của Nghĩa Võ, một bác sĩ quân y, trong phút chốc bị bứng khỏi cội nguồn, lênh đênh trên con tàu nhỏ chưa biết trôi dạt về đâu, để rồi hai tháng sau, ông ngập ngừng đặt chân đến Mỹ, nơi cách biệt quê nhà đến 10,000 dặm và bắt đầu cuộc đời mới trong vô định.

Tôi đi theo bước chân của tác giả Nghĩa Võ, bố của Christina Võ, là những bước chân quay ngược về quá khứ của một người Việt tị nạn đã thành danh trong hiện tại, để nhìn, để suy ngẫm về hành trình mà ông đã đi qua, cũng là một phần của dân tộc Việt Nam đã đi qua – một dân tộc mà từ những dòng đầu tiên trong hồi ký, ông đã chỉ ra định mệnh của nó phải là phân ly.

Tác giả Nghĩa Võ là người đã vượt qua được tất cả những rào cản về ngôn ngữ, về văn hóa, để có thể dễ dàng tìm thấy sự đủ đầy về vật chất lẫn tinh thần nơi vùng đất mới. Nhưng thực tế, đâu đó trong tận sâu đáy tim ông, ‘những ký ức kinh hoàng của chiến tranh vẫn tiếp tục đóng khung cuộc sống của người đã trải qua nó.” Và như ông viết, “Việc mất quê hương, các chủ quyền và cả chính bản thân mình khiến họ cảm thấy bị tàn phá thể chất, vật chất và tinh thần.” Tất cả vẫn mãi là di chứng, là vết sẹo không mờ, đeo đẳng theo tác giả Nghĩa Võ, cũng là đeo theo những người tị nạn vốn không có được một sự lựa chọn công bằng cho việc phải ra đi để có thêm một nơi gọi là quê hương thứ hai; để dẫu rằng một ngày nào đó, họ có thể tìm thấy sự bình yên ở một đất nước khác, nhưng vẫn thấy khắc khoải trong lòng một tình yêu sâu thẳm và nỗi khao khát cố hương. “Đó là sự chia lìa ám ảnh suốt cuộc đời” mà tôi nghĩ rằng mình đã bắt gặp, không chỉ ở riêng tác giả Nghĩa Võ, mà còn ở bao người như ông.

“Việt Nam của con. Việt Nam của cha” cuốn hút tôi còn bởi cách Christina chia sẻ những cảm nhận của cô về một Việt Nam trong tâm thế của một người biết mình mang dòng máu thuần Việt của mẹ của cha nhưng lại phải loanh quanh đi tìm, đi góp nhặt những gì thuộc về gốc gác mình, về gia đình mình, về xứ sở Việt Nam từ những người khác nhau, trong những tình cờ khác nhau, để từng chút từng chút cô có thể hiểu hơn về con người Việt Nam trong cô, và quan trọng hơn, để có thể hiểu được cha cô, hiểu được người mẹ quá cố của cô, theo cách tốt nhất mà cô có thể.

“Việt Nam của con. Việt Nam của cha” cuốn hút tôi còn bởi mối quan hệ cha con của ông Nghĩa và Christina thật đặc biệt. Nó không hoàn toàn giống mối quan hệ cha con mà tôi thường thấy trong các gia đình Việt Nam. Đầy ắp trong “Việt Nam của con” là bóng dáng của người bố và thấp thoáng hình bóng của người mẹ đã khuất. Trong hành trình mà cô vừa muốn tự do khám phá những điều mới lạ của cuộc sống, muốn trải nghiệm những điều mới mẻ trong công việc mà cô tìm được ở Việt Nam hình như không lúc nào không có sự day dứt nghĩ về mẹ về cha. Ngược lại, “Việt Nam của cha” lại mờ nhạt hình bóng của con. “Việt Nam của cha” trong ký ức của ông Nghĩa là Việt Nam của một thời con ông chưa hiện hữu trong cuộc đời, là Việt Nam của chiến tranh, của đau thương, của biệt ly, của mất hết. Ông chưa bao giờ muốn biết về Việt Nam của con. Và ông cũng không bao giờ kể với con về Việt Nam của ông.

“Việt Nam của Con-Việt Nam của Cha”. Con không biết về Việt Nam của cha. Cha không biết về Việt Nam trong con. Họ không biết về Việt Nam của nhau. Cha chạy khỏi quê hương. Con tìm về đất tổ. Cha ngồi trên lầu viết về Việt Nam của cha. Con ngồi dưới lầu viết về Việt Nam của con. Nhưng, cùng với nhau, như Christina viết, “họ dệt nên một câu chuyện vang vọng qua nhiều thế hệ. Đó là câu chuyện về một người tỵ nạn Việt Nam, bị mất gốc vì sự hỗn loạn, phải gieo mầm cho một cuộc sống mới trong không gian mênh mông và thanh bình của Hoa Kỳ. Đó là câu chuyện về một người Mỹ gốc Việt trở về Việt Nam với trái tim bồi hồi khao khát muốn hiểu thêm về gia đình và lịch sử. Đó là câu chuyện của một người cha và một cô con gái cố gắng thu hẹp khoảng cách của các thế hệ, của thời gian và không gian, và của cùng một quê hương.”

“Việt Nam của con. Việt Nam của cha” được viết bằng Anh ngữ, được nhà báo Kalynh Ngô dịch sang tiếng Việt, là một hồi ký dài hơn 300 trang, được chia làm 7 phần, gồm Đi/Đến, Hành trình, Hai thế giới, Nét quyến rũ của miền Nam, ‘Cải tạo/Hồi hương, Đứa con của Việt Nam và Lời kết. Ngoài ra, còn có thêm Lời phi lộ (thực sự lời này rất lạ với tôi) và Lời bạt.

Ngoại trừ phần Lời Bạt, còn lại tất cả các phần đều xen kẽ suy nghĩ của con và hồi ức của cha, hoặc ngược lại chiêm nghiệm của cha và cảm nhận của con. Về Việt Nam.

Nếu “Việt Nam của con” trải dài theo thời gian, bắt đầu từ cột mốc 2002, khi ở tuổi 22, Christina nhận được email từ Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc cho biết cô được nhận vào một chương trình thực tập 6 tháng ở Hà Nội, nơi cô chưa từng chủ động nghĩ rằng mình sẽ đến, kéo dài cho đến năm 2011 khi cô rời Hà Nội lần thứ 3 không chỉ vì đã xác định mục đích xây dựng lại cuộc sống ở San Francisco, mà còn vì hy vọng việc trở về Hoa Kỳ sẽ cho cô cơ hội để gần gũi với cha mình. Thì “Việt Nam của cha” lại là những hồi ức không theo năm tháng. Bắt đầu từ lúc đặt chân đến Hoa Kỳ vào Tháng 6 của năm 1975, hành trình ngược quá khứ của ông Nghĩa không chỉ là chuyện nhớ lại việc ông đã làm gì để tồn tại được ở mảnh đất này sau những bỡ ngỡ ban đầu, mà chuyến xe thời gian đó có lúc dừng lại ở mốc thời gian của năm 1974, 1975, có lúc lại đưa ông trở lại Việt Nam của những ngày ông còn thơ bé, khi ở Vũng Tàu, lúc ở Sài Gòn, khi ở thập niên 40, lúc lại rơi vào những năm 50. Hay có lúc đang miên man với đời sống tại Mỹ trong suốt cả mười mấy năm, người đọc lại thấy tác giả bâng khuâng nhớ lại những gì diễn ra ở Sài Gòn trong thập niên 70…

Nhưng điều thú vị là, dù mỗi người viết về Việt Nam theo cách riêng của mình, như chả ăn nhập gì với nhau, vậy mà vẫn có thể song hành với nhau một cách mượt mà, êm ái.

Cuối cùng, hồi ký “Việt Nam của con. Việt Nam của cha” thật sự mang đến cho người đọc hải ngoại, đặc biệt những người chưa một lần về cố hương kể từ biến cố 1975, hình ảnh một Việt Nam rất khác. Khác như thế nào, tôi xin nhường phần cảm nhận đó lại cho mỗi người. 
 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Nhà văn Trịnh Y Thư vừa ấn hành tuyển tập Theo Dấu Thư Hương 2, gồm nhiều bài viết trong nhiều chủ đề đa dạng, phần lớn là về văn học nghệ thuật, đôi khi là lịch sử, khoa học, xã hội. Tuyển tập dày 294 trang, đang lưu hành trên các mạng, như Amazon và Barnes & Noble. Nhìn chung, tác phẩm giúp độc giả soi rọi thêm nhiều cách nhìn đa dạng, mới mẻ, kể cả khi tác giả viết về những người viết chúng ta đã quen thuộc trong văn học Việt Nam, như về Ngô Thế Vinh, Đỗ Hồng Ngọc, Nguyễn Thị Khánh Minh, và nhiều người khác...
Hans Fallada, tên thật là Rudolf Ditzen, người đã sống giữa những biến động của nước Đức — từ sự sụp đổ của Đế chế, đến cơn bão của Thế chiến thứ nhất, rồi bước vào cơn ác mộng của Đệ tam đế chế. Trước chiến tranh, Fallada là một nhà văn nổi tiếng, tác giả của Little Man, What Now?, được Hollywood dựng thành phim. Nhưng khi Hitler lên nắm quyền, ông bị cấm xuất bản, bị Gestapo rình rập, và bị ép phải viết những tác phẩm phục vụ tuyên truyền. Tưởng chừng như bị nghiền nát giữa bạo lực và sợ hãi, ông lại tìm thấy trong ngục tối một đường sống của tâm hồn – viết. Trong ngục tối, ông bí mật viết nên ba cuốn tiểu thuyết mã hóa, và sau chiến tranh, vừa thoát xác một người sống sót, ông viết cuốn cuối cùng: Mỗi người đều chết một mình (Every Man Dies Alone).
Năm 2025 đánh dấu một bước ngoặt đặc biệt trong hành trình của Ocean Vuong (1). Nhà văn, nhà thơ gốc Việt nầy đã trở thành một trong những khuôn mặt quan trọng nhất của văn chương Mỹ đương đại. Không còn là “hiện tượng thơ”, không còn được biết đến qua nỗi đau di dân, không còn đứng trong hào quang của Night Sky with Exit Wounds hay thành công bất ngờ của On Earth We’re Briefly Gorgeous trước đây, Ocean Vuong năm 2025 là một nhà văn đang mở ra biên giới mới của chính mình với The Emperor of Gladness, NXB Penguin Press, New York, 2025)...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Vâng, cảm ơn nhà thơ thiền sư Thiện Trí. Ý nghĩa rất minh bạch, rằng hãy về thôi. Về thôi, về mặc Cà Sa / Về thôi cởi áo Ta Bà phong sương... Hiển nhiên, không phải là đổi y phục, mà phải là chuyển hóa nội tâm. Cởi áo Ta Bà không đơn thuần là rời bỏ đời sống cư sĩ hay thế tục, mà là buông bỏ tâm vọng động, tâm phân biệt, tâm chấp ngã vốn đã bị phong sương của sinh tử bào mòn. Mặc áo Cà Sa không nhất thiết là khoác lên mình chiếc áo của người xuất gia, mà là khoác lên tâm từ bi, trí tuệ, và vô ngã.
Khăn quấn. Áo sơ sinh. Muối. Tuyết. Băng. Năm vật trắng - năm tiếng gọi đầu tiên - đặt lên trang giấy như một chuỗi hạt. Trong tay Han Kang, chúng vừa là dấu hiệu khởi sinh, vừa là định mệnh. Đứa trẻ chưa kịp sống đã được bọc trong khăn trắng, và cũng chính khăn quấn ấy trở thành tấm liệm. Trắng ở đây không phải nền sáng, mà là sự trống vắng ngân nhịp toàn cuốn sách. Han Kang, nhà văn Hàn Quốc được biết nhiều qua The Vegetarian, tác phẩm đã đem về cho bà giải Nobel Văn chương năm 2024, xuất hiện trong văn học thế giới như một cơn gió lớn. Nhưng The White Book mới là tác phẩm tôi rất yêu của Bà – những dòng chữ lặng mà sáng, mong manh mà bám riết.
Cuốn sách này là một công trình phục vụ cộng đồng nhân kỷ niệm 50 năm xa quê hương sống đời viễn xứ (1975-2025). Sách được in thành 2 tập – Tập 1 gồm 41 tác giả và Tập 2 gồm 45 tác giả. Như vậy, tổng cộng có 86 tác giả, trong đó có nhiều tác giả đã nổi tiếng từ trước 1975. Tám mươi sáu tác giả đến vùng đất này bằng những cách khác nhau, trình độ khác nhau, nghề nghiệp khác nhau nhưng có một điểm tất cả đều giống nhau. Đó là: Họ đã sống và viết bên dòng Potomac.
Ngày 17 tháng 9 năm 2025, thi sĩ “Công giáo” Lê Đình Bảng đã bước vào độ tuổi thượng thọ. Ông đã chính thức đạt 83 tuổi Tây và 84 năm tuổi ‘Mụ’. Một độ tuổi cần nghỉ ngơi, an dưỡng tuổi già. Song với tình yêu văn chương, chữ nghĩa và đặc biệt là niềm tin vào tôn giáo, ông vẫn như một thanh niên tráng kiện, đầy đức tin và nhiệt huyết, khi cho ra mắt thi phẩm thứ 25, sau rất nhiều tác phẩm nổi tiếng với nhiều thể loại khác nhau như văn xuôi, nghiên cứu lịch sử, tôn giáo...sáng tác kể từ năm 1967 miệt mài cho đến nay...
Tập truyện ngắn vừa phát hành của nhà văn Trần Kiêm Trinh Tiên có một nhan đề rất là buồn, “Hạt U Minh.” Nhiều truyện trong tập này như dường viết về các lằn ranh bị vượt qua. Thí dụ, lằn ranh tình yêu (hay như dường là tình yêu) giữa một ni cô và một chàng trai trong trường Dòng. Hay thí dụ, mối tình giữa một thiếu nữ Huế và chàng trai Mỹ, và chàng chết khi bùng nổ các trận đánh trong Tết Mậu Thân ở Huế. Hay như truyện cuối trong tập, khởi đầu là các hình ảnh liên hệ tới Kinh Thánh Ki Tô Giáo, giữa truyện là ký ức một thiếu nữ về một truyện Thiền... Cuộc đời, vâng cuộc đời, thực sự là không có lằn ranh, dù là màu da hay tôn giáo. Tác giả có vẻ như muốn nêu chủ đề từ những chuyện đời thường.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.