Hôm nay,  

80 Năm Sau Cái Chết Của Benito Mussolini: Những Bài Học Cảnh Tỉnh Cho Các Nền Dân Chủ Hiện Nay

02/05/202500:00:00(Xem: 3150)

80 nam
Chủ nghĩa phát xít không bắt đầu bằng bạo lực ồ ạt, mà từ những nhượng bộ nhỏ, những cái cúi đầu trước thói lừa dối và bạo tàn. (Nguồn: Wikimedia Commons)

Ngày 28 tháng 4 năm nay vừa tròn 80 năm kể từ khi nhà độc tài Ý Benito Mussolini bị xử tử tại một ngôi làng ở Ý vào cuối Thế Chiến II năm 1945. Chỉ một ngày sau đó, thi thể của ông ta bị bêu rếu và lăng nhục công khai ở Milan.
 
Dưới bóng tội ác ghê rợn của Adolf Hitler, khi nhắc đến chủ nghĩa phát xít, nhiều người thường nghĩ ngay đến những ký ức về Đức Quốc xã. Thế nhưng, cần nhớ rằng Benito Mussolini mới chính là kẻ mở đường. Biệt danh Il Duce (xin tạm dịch là Lãnh tụ) của Mussolini chính là nguồn cảm hứng cho Hitler.
 
Ngày nay, giữa lúc các bình luận gia, blogger và giới học giả tranh luận về việc liệu chính quyền của Tổng thống Mỹ Donald Trump, Thủ tướng Hungary Viktor Orbán và Tổng thống Nga Vladimir Putin có mang “hơi hướng phát xít” hay không, thì hầu như ai cũng đồng ý rằng cuộc đời chính trị của Il Duce là bài học nhãn tiền về sự thất bại của nền dân chủ trước tham vọng quyền lực độc tài.
 
Khởi đầu mộng tưởng
 
Năm 1914, Benito Mussolini thành lập Fasci d'Azione Rivoluzionaria – một nhóm vũ trang cổ súy nước Ý dấn thân vào cơn lốc Thế Chiến I, đánh dấu sự ra đời của thuật ngữ “phát xít” (fascist).
 
Sinh ra và lớn lên trong một gia đình ngập tràn tư tưởng cánh tả, trước chiến tranh, Mussolini từng cầm bút cho các tờ báo CNXH, miệt mài gieo hạt giống lý tưởng trên những trang giấy. Nhưng ngay từ thời trai trẻ, ông ta đã say mê những tư tưởng chống dân chủ (anti-democratic) cực đoan của Friedrich Nietzsche, Georges Sorel và Vilfredo Pareto.
 
Khi Thế Chiến I bùng nổ, Mussolini liền rũ bỏ chiếc áo xã hội chủ nghĩa (vốn phản đối chiến tranh) để tự mình khoác lên tấm áo lính. Cũng như Hitler, chính trên chiến trường khốc liệt, những ý tưởng về chủ nghĩa phát xít đã nhen nhúm trong Mussolini, cùng với giấc mộng phục hưng một nước Ý hùng mạnh, sánh ngang hào quang bất diệt của Đế chế La Mã xưa.
 
Tháng 3 năm 1919, Mussolini gom một nhóm hỗn tạp các cựu binh từng tham gia Thế Chiến I, lập ra Fasci Italiani di Combattimento tại Milan. Mục tiêu chung của họ là đẩy lùi ảnh hưởng của các phong trào chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản đang trỗi dậy mạnh mẽ. Các thành viên chia thành các nhóm nhỏ, gọi là squadristi, khét tiếng với màu áo đen và bạo lực, chẳng hạn như ép nạn nhân uống dầu thầu dầu.
 
Tuy vậy, những nỗ lực chính trị đầu tiên của Mussolini đã thất bại thảm hại. Trong cuộc bầu cử năm 1919, ông ta nhận được số phiếu quá ít ỏi. Phe cộng sản cười nhạo, thậm chí còn tổ chức “tang lễ” cho “tham vọng chính trị” của Mussolini ngay trước nhà ông ta.
 
Từ bạo lực đường phố đến chính trường Rome
 
Những năm 1920 – 1921, khi nước Ý chìm trong làn sóng đình công và chiếm đoạt đất đai, nhà máy của công nhân, chủ nghĩa phát xít dần trở thành một phần của chính trường quốc gia.
 
Lo ngại phong trào công nhân sẽ đe dọa quyền lợi của mình, tầng lớp chủ đất và chủ xưởng công nghiệp đã quay sang nhờ cậy các đội squadristi của Mussolini để đàn áp các đợt đình công, triệt tiêu các tổ chức công nhân. Các đội áo đen này còn ngang nhiên dùng vũ lực để đảo ngược kết quả bầu cử dân chủ tại các thành phố như Bologna và Cremona, cướp đoạt chiến thắng từ tay những ứng cử viên cánh tả.
 
Trớ trêu thay, bạo lực lại trở thành đòn bẩy nâng cao vị thế chính trị cho Mussolini. Chỉ sau một thời gian ngắn, vào tháng 7 năm 1921, ông ta được mời vào tham gia chính phủ của Thủ tướng Ivanoe Bonomi.
 
Tháng 10 năm 1922, quân phát xít chiếm lĩnh các thành phố Bolzano và Trento. Thế nhưng, phe tự do, XHCN và Hoàng gia Ý lại chần chừ, do dự, và Mussolini đã chớp lấy thời cơ. Tập hợp đội quân phát xít áo đen, ông ta tổ chức cuộc “Hành Quân về Rome” vào cuối tháng 10 năm đó, thẳng thừng đòi vị trí Thủ tướng.
 
Lịch sử ghi lại rằng, nếu chính phủ hành động cứng rắn, cuộc hành quân ấy đã bị dập tắt từ trong trứng nước. Thực chất, đây chỉ là một vở kịch chính trị liều lĩnh và đầy toan tính. Thế nhưng, trong nỗi lo sợ nội chiến, và đặc biệt vì nỗi ám ảnh đối với CNCS, Vua Victor Emmanuel III đã chấp nhận nhượng bộ mà không cần phải động binh.
 
Ngày 31 tháng 10 năm 1922, Benito Mussolini chính thức trở thành Thủ tướng nước Ý.
 
Chế độ độc tài: cái thòng lọng siết dần dần
 
Giống như Hitler sau này (năm 1933), Mussolini ban đầu cũng lãnh đạo một chính phủ liên minh với sự tham gia của nhiều đảng phái không thuộc phe phát xít. Tuy nhiên, với quyền lực đàn áp trong tay, ông ta đã lợi dụng sự chia rẽ giữa các phe phái để từng bước thâu tóm toàn bộ quyền lực về mình.
 
Năm 1923, Mussolini ra lệnh bắt giam hàng loạt thành viên của ĐCS, đồng thời hợp pháp hóa squadristi thành lực lượng bán quân sự của nhà nước. Ông ta cũng dùng quyền lực nhà nước để giám sát chặt chẽ tất cả các đảng phái đối lập.
 
Trong cuộc bầu cử năm 1924, nhờ cho quân lính bao vây, đe dọa cử tri ngay tại các điểm bỏ phiếu, Mussolini giành chiến thắng áp đảo với 65% số phiếu bầu.
 
Tháng 6 năm ấy, thủ lãnh xã hội chủ nghĩa Giacomo Matteotti bị các đội quân áo đen bắt cóc và sát hại. Ban đầu, Mussolini chối bỏ mọi liên quan dù mọi bằng chứng đều chỉ thẳng vào mình. Nhưng chỉ vài tháng sau, Mussolini ngạo nghễ nhận trách nhiệm và tung hô bạo lực phát xít như một thành tựu đáng tự hào – không ai làm gì được ông ta.
 
Tới cuối năm 1926, sau khi thoát chết trong một vụ ám sát (chỉ bị trầy mũi vài hôm), Mussolini tiến thêm một bước: dứt khoát cấm mọi lực lượng đối lập, đặt dấu chấm hết cho nền dân chủ Ý.
 
“Đỡ ác hơn”? Lầm tưởng!
 
Kể từ sau khi Mussolini bị xử tử vào tháng 4 năm 1945, người ta thường so sánh chế độ phát xít của ông ta là “đỡ ác hơn,” “đỡ độc tài hơn” so với chủ nghĩa Quốc xã của Hitler hay chủ nghĩa Stalin tại Nga. Nhiều người Ý cũng chọn cách nhìn nhận này, nhất là sau những tội ác của Đức Quốc Xã đối với nước Ý trong những tháng cuối cùng Thế Chiến II.
 
Tuy nhiên, cần nhớ rằng Mussolini là người đầu tiên tuyên bố mình xây dựng một chế độ toàn trị. Ông ta tự xưng là “kẻ được chọn,” và quả quyết rằng chủ nghĩa phát xít là sự “tái sinh tinh thần” cho nước Ý.
 
Để hiện thực hóa tham vọng làm cho nước Ý vĩ đại trở lại, Mussolini thâu tóm toàn bộ bộ máy nhà nước: kiểm soát truyền thông, báo chí, giáo dục, triệt phá các nghiệp đoàn độc lập, đàn áp quyền đình công (dưới danh nghĩa xây dựng một “phong trào vì nhân dân”), bảo vệ các ngân hàng lớn – và kết quả là sự bất công kinh tế trong xã hội Ý dưới thời ông càng trở nên trầm trọng.
 
Ngoài ra, Mussolini còn nuôi tham vọng bành trướng đế quốc với cuộc xâm lược Ethiopia, vi phạm công ước quốc tế khi sử dụng vũ khí hóa học và hành quyết tù nhân. Ước tính hơn 700,000 người Ethiopia đã thiệt mạng, hàng chục ngàn người khác bị đẩy vào các trại giam.
 
Từ năm 1926 đến 1945, chế độ của Mussolini dựng nên hơn 30 trại tập trung, chủ yếu ngoài lãnh thổ Ý. Ở Libya, chỉ trong vòng 5 năm (1929 – 1934), khoảng 50,000 đến 70,000 người đã bỏ mạng trong các trại giam của phát xít Ý, chưa kể những nạn nhân chết vì đói, bị hành quyết hoặc do chính sách “thanh lọc sắc tộc” tàn bạo.
 
Năm 1939, Heinrich Himmler, lãnh đạo SS của Đức Quốc xã, đã đánh giá chế độ thực dân Ý tại Libya là mô hình thống trị thành công “đáng noi theo.
 
Sau khi tham chiến trong Thế Chiến II, quân Ý cùng phe Trục dựng nên các trại tập trung ở Nam Tư, Albania và Nga, giam cầm hơn 80,000 tù nhân. Hơn 3,000 người thiệt mạng tại trại Rab chỉ trong hai năm 1942 và 1943.
 
Từ cuối năm 1943, phát xít Ý năng nổ tham gia chiến dịch bắt giữ hơn 7,000 người Do Thái Ý để đưa vào trại Auschwitz – hầu hết trong số họ đã bị sát hại. Dù chiến tranh kết thúc và Mussolini bị xử tử, phần lớn những kẻ gây ra các tội ác thấu trời này không phải chịu bất kỳ hình phạt nào.
 
Những bài học còn đọng lại sau tám thập niên
 
Ngày nay, rất ít người dám vỗ ngực tự nhận mình theo chủ nghĩa phát xít – dù có không ít kẻ bị hấp dẫn bởi chính trị độc tài và chủ nghĩa dân tộc cực đoan.
 
So với Hitler, Mussolini còn dễ bị đánh giá là một gã lố bịch hơn: quân phục bóng bẩy, điệu bộ khoa trương, vẻ nam tính được tô vẽ thái quá, kệch cỡm và chiếc cằm “thép” nổi tiếng.
 
Nhưng bài học xương máu ở đây là: những kẻ như vậy chỉ có thể trỗi dậy khi phe dân chủ không đủ quyết đoán để ngăn chặn từ sớm. Xem thường chúng là tự tay mở đường cho chúng tiến lên.
 
Trong suốt những năm 1920 đến 1926, Mussolini liên tục “thử lửa” vận may của mình bằng những hành động liều lĩnh, từng bước làm suy yếu nền dân chủ Ý. Bộ phim truyền hình “Mussolini, Đứa Con của Thế Kỷ” (Mussolini, Figlio del Seculo) đã tái hiện rõ nét quá trình này, cho thấy phe đối lập cứ lặp đi lặp lại một sai lầm: không thể đoàn kết để ngăn chặn các cuộc tấn công của phát xít vào những chuẩn mực và thể chế dân chủ. Khi họ nhận ra hiểm họa, thì mọi chuyện đã quá trễ.
 
Các nền dân chủ không sụp đổ trong một đêm, mà lụi tàn qua hàng ngàn vết thương nhỏ, khi định nghĩa về “lẽ thường tình” cứ âm thầm bị thay đổi từng ngày. Chủ nghĩa phát xít sinh sôi trong sự dối trá trơ trẽn, khéo leo che đậy những ý đồ xấu xa nhất. Những “kẻ mạnh” như Mussolini có thể từng bước thâu tóm quyền lực, phần lớn vì dân chúng không thể tin rằng sự tha hóa chính trị – bao gồm cả bạo lực trắng trợn đối với những người bất đồng chính kiến – lại có thể xảy ra ngay trên quê hương mình.
 
Cuối cùng, một bài học đáng sợ nhất, lạnh người nhất: Mussolini là một bậc thầy tuyên truyền, ông ta đã thuyết phục được tất cả mọi người rằng mình đại diện cho một phong trào vì nhân dân, mang sứ mệnh tái sinh các giá trị truyền thống.
 
Nếu ngay từ thuở đầu, Hoàng gia, quân đội, các đảng phái và Giáo hội Công giáo sớm phối hợp hành động nghiêm túc, hẳn nước Ý sẽ né được những trang sử đẫm máu đỡ tang thương.

Nguyên Hòa biên dịch
 
Nguồn: “80 years after Benito Mussolini’s death, what can democracies today learn from his fascist rise?” được đăng trên trang TheConversation.com.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ở Hoa Kỳ, khi nghe đến cụm từ “giáo dục tổng quát,” người ta thường hình dung về những khóa học nhập môn trong các lĩnh vực nghệ thuật, nhân văn, khoa học xã hội, khoa học tự nhiên và toán học. Tùy vào mỗi trường, chương trình này có thể mang những cái tên khác nhau như “chương trình căn bản” (core curriculum) hay “các môn học bắt buộc” (distribution requirements). Ngoài ra, chương trình này đôi khi còn có một tên gọi khác là “giáo dục khai phóng” (liberal education). Hội các trường Cao đẳng và Đại học Hoa Kỳ (American Association of Colleges and Universities, AACU) mô tả đây là chương trình giúp bồi dưỡng “tinh thần trách nhiệm xã hội, cùng với các kỹ năng trí tuệ và thực tiễn vững vàng có thể vận dụng linh hoạt.”
Trong nhiều năm kể từ khi Jeffrey Epstein được phát hiện chết trong phòng giam tại Metropolitan Correctional Center (MCC), New York, giới chức liên bang luôn khẳng định rằng cái chết này là một vụ tự sát. Tuy nhiên, một cuộc điều tra độc lập do CBS News thực hiện đã phơi bày hàng loạt mâu thuẫn giữa các tuyên bố của chính phủ và những gì thực sự hiện ra trong đoạn phim giám sát vừa được công bố.
Cuối mùa Hè năm 1955, Till-Mobley tiễn con trai của bà, Emmett Till 14 tuổi lên một chuyến tàu từ Chicago đến thăm chú và các anh em họ của Emmett ở quê hương Mississippi của bà. Giống như những phụ nữ và đàn ông da đen nói với con cái họ về việc chú ý các điểm dừng giao thông và các cuộc chạm trán khác với cảnh sát, Till-Mobley đã căn dặn Emmett rất kỹ. Bà cho cậu biết cậu đang đi đến một nơi mà an toàn phụ thuộc vào khả năng kiềm chế sự bốc đồng, tính cách không khuất phục của cậu với người da trắng. Linh cảm của người mẹ mang đến trong lòng bà nỗi bất an không giải thích được. Bà đưa cho Emmett chiếc nhẫn bạc của ông Louis Till, cha của cậu. Chiếc nhẫn khắc chữ L.T.
“Đi về Miền Nam, miền hương thơm bông lúa tràn ngập đầy đồng; Đi về Miền Nam, miền xinh tươi đất rộng cùng chung nguồn sống” Và cứ như thế, với tiếng hát trong tâm tưởng, từng đoàn người gồng gánh ra đi. Họ đi về hướng Nam giống như cha ông của mình từ bao nhiêu thế kỷ trước. Bây giờ lại còn một động lực mới và mãnh liệt khác, đó là đi tìm tự do: ‘chúng tôi muốn sống!’, như tên gọi một cuốn phim nổi tiếng của đồng bào di cư sau này. Cuối tháng 6, dù hiệp định đình chiến chưa ký kết nhưng quân đội Pháp và Quốc gia đã rút lui khỏi nhiều địa điểm ở đồng bằng Bắc Việt nên nhiều người bắt đầu di tản về các đô thị, đặc biệt là Hải phòng.
Cõi này ngày càng bất an! Tình trạng hâm nóng toàn cầu đã dẫn tới nhiều thảm họa như bão lụt, hạn hán, mực nước biển dâng cao, dịch bệnh, mất mùa, đói khát lầm than. Chiến tranh thù hận ngày càng hung bạo đã làm cho hàng triệu người thương vong, nhà cửa ruộng vườn bị phá hoại. Các chế độ độc tài, quân phiệt, và nạn kỳ thị sắc tộc đã thẳng tay đàn áp dân lành. Tất cả những điều trên đã dẫn đến thảm trạng bỏ nước đi của hàng triệu người trên thế giới! Theo Population Division of the United Nations Department of Economic and Social Affairs (UNDESA), năm 2024 có tới 304 triệu di dân trên toàn cầu, là một con số tăng gần gấp đôi kể từ năm 1990, khi lúc đó có 154 triệu di dân trên thế giới. Đó là 3.7% tổng dân số địa cầu. Theo Cơ Quan Tị Nạn Liên Hiệp Quốc, tính tới cuối năm 2024, có 43.7 triệu người tị nạn, gồm 6 triệu người tị nạn từ Palestine và 8 triệu người xin được nhận vào quy chế tị nạn trên toàn cầu.
Trong số người Việt, thế hệ thứ nhất có 29% học xong cử nhân hay cao hơn. Thế hệ sinh ra lớn lên tại Hoa Kỳ con số này là 59%. Như thế có thể lý giải là phụ huynh không có cơ hội học cao nhưng khuyến khích con theo đuổi đường học vấn cho tương lai.
Khi các chuyên gia quan ngại về mối quan hệ của giới trẻ với thông tin trực tuyến, họ thường cho rằng giới trẻ tuổi không hiểu biết về phương tiện truyền thông như những người lớn tuổi hơn. Nhưng công trình nghiên cứu dân tộc học do Jigsaw – cơ sở công nghệ của Google - thực hiện lại tiết lộ một thực tế phức tạp và tinh tế hơn: Thế hệ Z, thường được hiểu là những người sinh sau năm 1997 và trước năm 2012, đã phát triển các chiến lược khác biệt rõ rệt để đánh giá thông tin trực tuyến, những chiến lược sẽ khiến bất kỳ ai trên 30 tuổi trở nên bối rối. Họ không tiếp thu thông tin như những người lớn tuổi hơn bằng cách đầu tiên đọc tiêu đề và sau đó là nội dung.
Người Việt Nam không ai xa lạ với từ ‘Gulag’ - trại tù lao động khổ sai khét tiếng của Liên Bang Xô Viết. Ước tính trong khoảng hai thập niên từ 1930-1953, nơi đây giam giữ khoảng 4 triệu tù nhân; 1.5 triệu đã chết trong tù hay sau khi được thả một thời gian ngắn. Gulag từng được xem là địa ngục trần gian, là biểu tượng cho sự tàn bạo của nhà tù cộng sản. Trong những ngày cuối tháng 6, khi mà người dân Mỹ chuẩn bị pháo hoa đón mừng Lễ Độc Lập, cái tên Gulag được sử dụng khi nói đến một nhà tù mới được hình thành ở Florida. Nhà tù này có tên gọi là Alligator Alcatraz. Trong một bài viết được đăng trên trang mạng Amrican Community Media ngày 30/06/2025, nhà báo Laszlo Bartus đã cảnh báo rằng nó sẽ là nhà tù vô nhân đạo nhất thế giới.
Trong hơn bảy mươi năm qua, quan hệ giữa Hoa Kỳ và Iran đã trải qua nhiều bước ngoặt – từ một liên minh chiến lược thời Chiến tranh Lạnh, đến một trong những nước đối đầu gay gắt và kéo dài nhất của thời đại hậu thuộc địa. Bản tóm lược dưới đây ghi lại những cột mốc chính từ năm 1953 đến 2025, nhằm cung cấp một cái nhìn toàn diện về diễn biến phức tạp của quan hệ Hoa Kỳ–Iran trong bối cảnh biến động địa chính trị toàn cầu.
Tháng 5 vừa qua, một chuyến bay từ Johannesburg, Nam Phi đã đáp xuống phi trường Quốc tế Dulles, Hoa Kỳ. Trên phi cơ là khoảng 50 công dân Nam Phi da trắng thuộc cộng đồng Afrikaner. Những người này cho biết sinh kế của họ đang bị đe dọa nghiêm trọng do xã hội ngày càng “kỳ thị người da trắng.” Cách mô tả tình hình Nam Phi như vậy ngay lập tức nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ từ các nhà bình luận cánh hữu có ảnh hưởng ở Mỹ như Tucker Carlson, Charlie Kirk, và Stephen Miller.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.