Hôm nay,  

Mẹ về

27/06/202500:00:00(Xem: 2920)

Minh-họa-Nguyễn-Việt-Hùng
Minh-họa-Nguyễn-Việt-Hùng
 
Cô Trang xinh đẹp, đẹp cả người, đẹp cả nết, ôn hòa nhã nhặn trong cách đối xử giao tiếp với mọi người.
 
Cô người Nha Trang, lớn lên và đi học ở đó. Cô sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, mẹ cô đi dậy học, ông thân cô cũng là hiệu trưởng một trường trung học lớn ở Phú Yên. Năm 22 tuổi, cô học năm cuối đại học văn khoa Huế thì gặp gỡ chú Hiếu trong một dịp hội thảo sinh viên do các biến động thời cuộc miền Trung bắt đầu nhen nhúm. Chú Hiếu lúc đó đang theo cao học luật. Họ thành đôi bạn tâm giao tuổi trẻ, sau thành đôi uyên ương. Ba năm sau khi Trang vừa 25 tuổi, Hiếu đã nhậm chức chánh án tòa thượng thẩm. Hiếu hơn Trang 10 tuổi, nhưng Hiếu mảnh người, dáng nhanh gọn, nói năng hoạt bát. Trông họ rất xứng đôi vợ chồng. Họ làm đám cưới trang trọng và thân mật giữa sự vui mừng của hai họ nội ngoại. Sau nghi lễ, Trang vô ở trong căn nhà nội thất trang trọng mà tòa như dành riêng cho vợ chồng mới. Năm đó khoảng 1967-1968. Hơi uổng là dù có kiến thức mà Trang không ra ngoài xã hội làm việc. Có lẽ cũng theo yêu cầu chồng nàng chỉ lui cui ở nhà thu vén tề gia nội trợ. Khi còn độc thân, Trang là một tiểu thư khuê các, khi thành gia thất, nàng là một mẫu mực mệnh phụ phu nhân. Người chồng chiều chuộng và lo chu cấp đầy đủ cho cuộc sống, cho mọi nhu cầu. Trong cơ ngơi, cô còn có kẻ ăn người lằm và tài xế riêng khi cần đưa đón. Họ sống rất thuận thảo hạnh phúc, sung mãn. Trang cởi mở và thân mật với tất cả mọi người kể cả những người giúp việc.
 
Sau 5 năm, Trang và Hiếu có được 2 con trai xinh đẹp khôi ngô là Thảo và Thuận. Hai đứa con như làm tăng thêm hạnh phúc gia đình…
 
Nếu cứ thế mãi thì không sao, nhưng cuộc đời chợt đổi thay. Ngày 30-04-1975 định mệnh đen tối ấp đến với cả đất nước, không ngoại trừ một ai.
 
Gia đình Hiếu và Trang bị cuốn theo chiều gió, ngơ ngác. Từ đầu tháng 03-75 gia đình nội và ngoại đã di tản vào Nam. Nhưng Hiếu, Trang và hai con vẫn ở lại miền Trung.
 
Hiếu nắm trách nhiệm công việc, không thể bỏ rơi đồng nghiệp và nhiệm sở. Trang thì không thể và không muốn rời xa chồng, cái cột dựa vững chắc của cô. Trang và hai con trai lẩn quẩn bên cạnh chồng ngay cả khi anh làm việc trong lúng túng. Họ sinh hoạt thu gọn hơn, nhưng vẫn trong khuôn viên tòa án.
 
Nhưng rồi ba ngày sau, ba mẹ con cô không thể đi theo Hiếu vào trại giam vì lúc cộng sản chiếm thành phố, Hiếu bị bắt đi ngay lúc họ ập vô tòa án, Hiếu đi ra vội vã đến nỗi đi tay không và không nói lời tạm biệt gia đình, là lệnh mà!
 
Ngay chiều cùng ngày, Trang được lệnh phải dắt hai con ra khỏi nơi cu ngụ… Trang sợ thất thần, nhưng rồi nàng chợt hiểu… nhờ chợt nhớ lại, trong mớ kiến thức hổn độn thời kỳ còn đi học… chẳng còn gì ngoài mấy câu thơ sắc nét của nhà thơ Trần Dần :
“Tôi bước đi
Không thấy phố thấy nhà
chỉ thấy mưa sa
trên mầu cờ đỏ!“
 
Trang mang hai con ra cổng nhà, đi về phía nhà cha mẹ ruột dưới trời mưa xám, hơi nặng hạt, rất may cho mẹ con cô là cả nhà đã di tản, nhưng còn chị Tám giúp việc còn lại đó, chị thu dọn gian bếp, ngủ, đặng coi chừng, coi chừng gì không biết nữa, à, coi chừng xem mặt cộng sản ra làm sao, chưa thấy cộng sản tới tịch thu nhà. Chỉ thấy Trang dắt con tới gọi, chị cười như mếu: ô, cô hả, may quá, có cô và hai em tới ở cùng, cháu sợ một mình lắm, cô và hai em cứ vô bếp này, thôi mình chỉ ăn ngủ nội trong đây thôi.
 
Rồi cô cháu mẹ con tá túc quấn quýt bên nhau ít ngày. Chị Tám bơ vơ một mình, biết chạy về đâu, chị viện lẽ chị sinh trưởng ở đây thì đất nơi này là của chị… không ai có quyền chiếm đoạt tài sản hay đất đai. Trang thông minh hơn, nói như an ủi, hãy đợi coi vì họ vô thì ở đâu chẳng có họ, có mà chạy lên trời không lại.
 
Cũng có người quen rủ, tình thế nhốn nháo, chưa biết ai kiểm soát ai, cứ thúc đại ghe thuyền đi đại vô Saïgon, trong đó có người có ta, rồi tính sau. Nhưng Trang quyết ở lại để đi tìm tin tức của Hiếu. Cô trấn an hai con mà như để trấn an mình, “đừng sợ hãi, rồi ba các con về, ba sẽ lo mọi sự“ “mình phải đợi ba về, mình không thể bỏ rơi ba“. Ngay lúc đó Trang cứ đoán như kỳ loạn cộng sản tất Mậu Thân ở Huế… rồi ít ngày ít tháng sẽ xong. Nhưng cô đâu có ngờ chồng cô đã bị điệu ngay ra Bắc, ông chánh án ngụy, nguy hiểm đi xa biền biệt.
Chờ đợi chán, cuối cùng Trang cùng hai con rong ruổi ngày đi đêm đi rong tuổi chạy bộ dần dần về Saïgon tìm gia đình, tìm cha mẹ. Tìm mãi không thấy cha mẹ, nhưng còn may cô tìm được người chị có nhà ở trong Nam, cho mẹ con cô tá túc.
 
Từ đó phải lo sống, Trang thu gom vốn liếng còn sót lại, cô theo người chị đi buôn bán chui với giấy tùy thân cũng chui (làm giả). Khi thì mua hàng ngoài chợ trời Trương Minh Giảng, khi thì đeo xe khách ra miền Trung buôn café Ban Mê Thuộc. Cô vẫn cố gắng đi đi về về chốn cũ, hy vọng tìm ra tông tích Hiếu.
 
Trang khá thông minh tháo vát và can đảm đối phó hoàn cảnh khó khăn. Dù trong lòng, có lúc tuyệt vọng, nhưng cô vẫn khuyên các con: “dù gì, mình cũng phải đợi ba về, ba về, ba sẽ lo được mọi việc. Tin mẹ đi, ba các con vẫn còn sống và bị giam giữ ở đâu đó!“
 
Trang và hai con cũng sống tạm ổn nhờ có chi viện của cha mẹ cô từ Pháp gởi về sau ba năm, họ liên lạc được với nhau. Các anh chị cũng có làm giấy tờ bảo lãnh xuất ngoại, nhưng Trang khoan tính chuyện ra đi, cô chờ chồng, chờ tin chồng, cô cứ tin là Hiếu còn sống đâu đó dù đã ba năm bặt vô âm tín.
 
… Rồi trời phật cũng không phụ lòng tin, cuối năm 1979, cô được một người lạ tìm đến tận nơi ở, không hiểu sao mà người đưa tin tìm ra cô, cho cô hay chồng cô đang ở trại giam Vĩnh Phú, phía bắc Hà Nội 50km Hiếu ghi cho Trang giòng chữ nhỏ vắn tắt trên một mảnh giấy nhàu nát và đúng ra là nét chữ của chồng cô: “cứ an lòng, anh sẽ về!“
 
Trang lần theo địa chỉ ghi, cô nhờ cậy một người bà con làm chức vụ ở Bắc vô Nam chơi, vừa khéo léo biếu quà vừa mua chuộc, cô xin được giấy phép ra Bắc thăm chồng.
 
Trang cứ nhớ mãi không thể quên, là lần đi thăm nuôi duy nhất và xa xôi đó, nàng không dám mang gì nhiều, sợ lộ việc, sợ sức mình mang vác nặng không kham nổi, cô chỉ thu gói gọn trong hai giỏ sách tay, một đựng vài bộ áo quần đơn giản cho mình và hai bộ áo quần cho chồng, sợ Hiếu đã rất rách rưới, còn một giỏ kia là đồ ăn, thịt chà bông, kẹo ngọt và một số thuốc tây căn bản phòng thân.
 
Còn lại thứ phụ thuộc linh tinh như cơm, gạo, bánh, mì khô cô chuẩn bị ra Hà Nội sẽ mua sau dù phải mua đắt. Nhưng ngược lại, cô bọc kỹ trong mình một số tiền khá lớn, giấy giá trị lớn và gọn, nhẹ chuẩn bị khi sa cơ nhỡ cho chồng nhiều và cho cả mình phần nào. Tất cả đều do mẹ cô giúp đỡ.
 
Rồi họ gặp nhau, một đôi vợ chồng còn khá trẻ, đầy can đảm nghị lực và nhuệ khí. Gặp nhau, sau xúc động là họ bình tĩnh âm thầm bàn tính, nói ít hiểu nhiều, Hiếu đồng ý cho Trang mang con ra ngoại quốc. Họ có mủi lòng, nhưng không khóc lóc và hẹn ngày tái ngộ.
 
Tới lúc bịn rịn chia tay, Trang tỏ ra cứng cỏi và quyết đoán, nàng cứ nhớ mãi là đã bọc tiền chặt, gọn và rất kín đáo và cuốn trong cái quai giỏ sách quần áo cho Hiếu, nàng dặn dò Hiếu lo giữ lấy phòng thân khi cần. Tiền để sống.
 
Nhưng Hiếu dùng dằng, rồi bảo đưa lại tiền cho Trang, viện cớ ở tù không cần mua gì và Trang có hai con thì cần hơn. Đẩy qua đẩy lại, nói ngọt ngào chồng không nghe lời, Trang đổi ý sẳn giọng:
 
Thôi con lạy ông, ông cầm lấy dùm con đi, cứ dằn co thế này, kìa, nó mà đoán, thấy được, nó bắt được thì chết… chết cả ông mà chết cả con!
 
Hiếu tức cười, cất tiền vô bao thuốc lá, không quên khen vợ: mấy lúc này, em tiến bộ coi được, biết đi van lạy và dọa nạt có bài bản…
 
*
*        *
 
Sau lần thăm nuôi ấy, Trang dặn dò chồng mọi chuyện, nàng về Nam, thu xếp với số tiền còn lại trong mình, nàng lo thủ tục giấy tờ đã được cho mẹ bảo lãnh từ lâu đưa được hai con trai sang Pháp. Đầu năm 1981, ăn tết Nguyên Đán xong, mẹ con nàng ra đi, rời quê hương Việt Nam yêu dấu, mẹ con nàng đã sang định cư ở một vùng ngoại ô Paris, Choisy Le Roi.
 
Sau một hai tháng đầu nơi đất khách, Trang thảng thốt khóc vùi nhớ nhà, nhớ quê hương Việt Nam, nhớ thành phố biển êm dịu miền Trung, nhớ Saïgon tất bật mà vui rộn ràng. Rồi thì cũng phải đứng dậy lau nước mắt làm chủ gia đình, lo đi học ngoại ngữ, lo đi học một nghề mà làm việc mà nuôi con.
 
Nhờ có vốn liếng sinh ngữ thời trẻ còn sót lại, nàng mau chóng xin học một formation ngắn hạn. Năm 1982, Trang bắt đầu làm caisse, rồi lên làm chef de rayons cho siêu thị Monoprix gần nhà. Hai con trai, Thuận và Thảo được đi học lại, chúng nghe mẹ khuyên bảo, học hành chăm chỉ tấn tới và như chúng cao lớn hẳn lên, cao hơn cả mẹ chúng…
 
Điều hơi đáng tiếc là Hiếu bị cộng sản giam cầm khá khá lâu, 12 năm sau, được vợ con bảo lãnh qua Paris, khi đó Hiếu đã 56 tuổi, tuy còn sung mãn nhưng vì bị tù đầy quá lâu, Hiếu không còn được lanh lẹ và hồn nhiên vui tính như ngày nào.
 
Dù gì họ vẫn là một gia đình được may mắn hơn chán vạn nạn nhân đồng hương của họ đã bạ tan nát đâu đó hay bị vùi sâu dưới đáy đại dương.
 
Trang lo chăm sóc sức khỏe cho chồng. Các con thành công trung học và bước vào học đại học.
 
Nhưng có lúc Hiếu vẫn buồn vơ vẩn, buồn cái buồn chung cả dân tộc, buồn cái buồn nhớ quê hương, và những cái buồn riêng bất lực và khó nói.
 
Hiếu đi loanh quanh trong hiên nhà, luẩn quẩn trong suy nghĩ sao tụi mình lại thua cộng sản? Không biết mình sống ở nơi này là đúng hay sai? Thỉnh thoảng nghe Hiếu thở dài, Trang nói như giỡn: “… em bắt chước giọng điệu cộng sản nếu như anh vẫn là tiểu tư sản!
 
Rồi ít lâu sau, Hiếu cũng phải đứng dậy đi làm việc, cho bớt suy nghĩ và phụ Trang nuôi con. May mắn nhờ người bạn thân đưa đẩy, anh được vào làm việc, trực một phòng thí nghiệm hóa sinh cho một trường trung học.
 
Hiếu bớt suy nghĩ, bớt buồn từ khi có việc làm, cũng trong công việc làm, Hiếu gặp lại vài ba người bạn đồng hương và họ cũng có lần rủ hai vợ chồng Hiếu đi hát karaoké. Họ vui vẻ cùng đi. Cùng ca hát.
 
Hiếu đàn giỏi hát hay và Trang như là Trang còn hát karaoké hay hơn nhiều người và hay hơn cả chồng, nhìn Trang và Hiếu song ca bên nhau bài Quỳnh Hương, người ta tưởng đó là đôi bạn tình đắm đuối nhứt một thời:                   Em trao cho anh một đóa quỳnh…
          Quỳnh thơm hay môi em thơm…
Em trao cho ta một đóa quỳnh…
Ngọt ngào thấm đẫm đam mê…
 
Họ hát karaoke và ăn cơm chung ở nhà Đỗ Quyên. Nhà Đỗ Quyên rộng, mát, đẹp, thuận tiện để tổ chức ăn và hát karaoke. Đỗ Quyên thích tổ chức văn nghệ như là họp mặt thi văn tao đàn, làm chỗ gặp gỡ hàn huyên, ngâm vịnh thi ca hát nhạc Việt Nam vào mỗi cuối tuần, đó là dịp tạm giải sầu cho cái sầu ly hương, buồn viễn xứ. Đó là dịp tạm giải sầu cho cái sầu ly hương, buồn viễn xứ. Đó là nơi bạn có thể tìm lại được bạn cũ hay có bạn mới. Đỗ Quyên yêu thích văn nghệ và không vụ lợi, chỉ cần đóng góp 20 euros, bạn ăn uống nói chuyện thỏa lòng vô tư… bạn bè vẫn ca ngợi:
 
Đỗ Quyên là con chim nho nhỏ
Có cái cổ đỏ rất xinh xinh
Và cũng hót với giọng du dương rất tình…
 
Nhưng ăn và uống thì thỏa thuê, bao nhiêu cũng được, nhưng màn hát karaoké thì có giới hạn, khi mục ca hát hào hứng, ai cũng thích tới phiên mình hát trước bạn, có lúc ca sĩ say mê micro hơn cả ăn uống hay hàn huyên, tâm sự cùng nhau… hát là trên hết.
 
Hiếu gặp bạn tù cũ, Tùng, ngồi cạnh, Tùng và Hiếu tỉ tê tâm sự vui buồn, Tùng kể cho Hiếu nghe chuyện vượt biên của gia đình anh, bi thảm, vì vợ con anh bị chìm xuồng hết thẫy giữa biển khơi. Họ lắng sâu vào chuyện kể, vào dĩ vãng… cho đến một lúc, Hiếu giựt mình ngửng lên thấy Trang, vợ anh, đang song ca rất tình tứ với các nam danh ca khác, những bản nhạc du dương: “tôi vẫn nhớ - đám cưới đầu xuân - lúa mùa duyên thắm…“ anh bạn song ca với Trang, rất vô tư, ôm vai Trang thắm thiết… và rống to như một con bò, giọng lanh lảnh để lọi kéo sự reo hò chú ý của khán giả:
 
… Gạo trắng trong mà nên duyên hẹn thề
… Gạo trắng trong mà nên duyên mặn mà.
 
Trang thì tươi cười hớn hở trước sự vỗ tay nồng nhiệt của mọi người. Hiếu hơi ngạc nhiên, Tùng như hiểu ý ánh mắt khó chịu của Hiếu, vội an ủi:
 
Ôi, ca với hát, hơi nhảm nhí rồi đó.
 
Từ đó Hiếu không muốn đi hát karaoké nữa, anh nói ở nhà đọc sách lợi hơn.
 
Trang thì cứ thích karaoké, em thích hát! Thích ca! Thích ca thì em đi một mình, anh không đi.
 
Hai vợ chồng cứ như vô cớ bất hòa từ tí ti, nhỏ rồi tới lớn dần.
 
Một hôm Trang sửa soạn đi karaoké vì Đỗ Quyên đang lập đi lập lại từ đầu giây bên kia, giọng vang vang:
 
Nhớ đến nghe Trang, Trang mà không đến là thiếu lắm đó Trang à… mọi người đang đợi!
 
Trang đang săm soi sửa soạn để đi hát, Hiếu dòm vợ lăng xăng và tỉ mỉ trang điểm trước gương… cùng lúc, đầu giây điện thoại kia vẫn vang lên giọng Đỗ Quyên gọi Trang dồn dập. Rồi chẳng biết, để mắng vợ hay mắng cô nàng Đỗ Quyên, cũng chẳng biết từ đâu, hay từ vô thức, Hiếu bật ra từ cửa miệng:
 
“Đồ đĩ!“
 
Đó là nguyên nhân làm đổ vỡ hạnh phúc vợ chồng. Từ buổi đó, khoảng cách Trang và Hiếu xa dần xa dần.
 
Mới đầu giận, hằn học, xong không nói chuyện với nhau nữa. Hai đứa con khổ sở không hiểu tại sao, chúng len lén đi học về học, ăn cơm, rửa chén, làm bài vở và đi ngủ. Lặng lẽ.
 
Hiếu bỏ nhà đến ở với Tùng một tuần lễ, Tùng lấy lời hơn thiệt khuyên Hiếu về lại nhà, viện lẽ Hiếu còn có một gia đình để yêu thương… còn Tùng, có ai đâu, độc đinh cô quả! Hiếu nghe lời Tùng trở về gia đình,  nhưng rồi lại giận hờn, Hiếu nói nhà này chỉ có thể một trong hai đứa ở thôi, hoặc tôi hoặc em!
 
Trang đồng ý ra đi, nàng về sống với cha mẹ, đợi chồng nguôi ngoai cơn giận, nàng nghĩ có lẽ gông cùm cộng sản đã làm tình cảm Hiếu có phần han rỉ, hao hụt. Mà có phần đúng vì Hiếu như càng ngày càng bực tức vô cớ và đi vào trầm cảm, anh thầm nguyển rủa cộng sản, nguyền rủa ông Nguyễn Văn Thiệu, nguyển rủa Đỗ Quyên và Trang là hai đứa con gái ham vui một cách vô ý thức, đã mất quê hương mà vui hát cái nỗi gì?
 
Nhưng anh rất mềm dịu với hai con trai, anh thương chúng đầu thai lầm thế kỷ, anh tỏ ra săn sóc các con hơn lúc Trang còn ở nhà.
 
Trang rất giận chồng đã quá nặng lời nàng không thể nào làm hòa với một con người thô lỗ quá thế. Nhưng vì lòng thương con, vì tình mẫu tử xót xa Trang vẫn năng nổ nấu gói đồ ăn thịt kho trứng, cá thu sauce tomate, canh chua, giò heo hầm, tôm hùm chua ngọt… Trang làm mỗi tuần một giỏ đồ ăn đầy ắp, nặng trĩu… lén lén đợi lúc Hiếu không có mặt ở đó, nàng mang về nhà xếp gọn gàng đầy tủ lạnh. Lau quét trước sau sạch sẽ, rồi lặng lẽ khóa cửa ra đi.
 
Trang tránh gặp mặt Hiếu trong khoảng thời gian dài đăng đãng gần 3 năm trời. Thời gian cứ vùn vụt trôi đi trôi đi, chẳng ai xin lỗi ai. Chẳng ai nhận lỗ họ cố chấp thiệt… hai đứa con đã học xong, đã bắt đầu đi làm việc… Thảo tìm đến nhà thăm ông bà và đưa tiền lương kiếm được biếu mẹ, mẹ con ôm nhau khóc thầm sau vườn cây, thuận thì thầm khuya vắng nào cũng nhắn tin cho mẹ trên ipad…
 
Rồi người ta đồn này đồn kia, đồn Trang đã có kép mới. Người ta cũng xì xầm Hiếu chán đời, bỏ việc làm, đã gá nghĩa với bà chủ quán ăn sang trọng nào đó ở miến cực nam nước Pháp.
 
Hai đứa con trai họ trưởng thành trong cái hạnh phúc khô cứng của bố mẹ chúng. Chúng hay nhìn nhau như cùng chia xẻ nỗi buồn gia đình tẻ nhạt. Chúng vẫn sống chung cùng ba  chúng… anh em Thuận Thảo ngầm chia sẻ nỗi buồn đồng cảnh ngộ, không đứa nào dám có, hay dám yêu một cô gái, một bạn gái… chúng như cùng an ủi nhau đợi một ngày đẹp trời nào đó, mẹ Trang sẽ mang hai giỏ đồ ăn về và ở lại, ở lại nhà, không khép cửa để ra đi nữa!
 
Hiếu qua tuổi 60 lúc nào không hay, Hiếu vẫn đi đứng mạnh khỏe bình thường, có điều trầm cảm nặng hơn và như mất dần trí nhớ, vưa mất trí nhớ vừa thêm hoang tưởng… anh phải vô bệnh viện hôpital Esquirol St Maurice đều trị tâm thần. Người ta cho anh uống tamesta rồi nặng hơn la prozac anh mới có thể ngủ lại được.
 
Khi bớt bệnh, hai con trai lại đưa bố chúng về nhà, một ngày đó vào một dịp lễ, các con đi xa, Hiếu ở nhà một mình, vắng lặng, rồi Hiếu muốn mở tủ lạnh kiếm một chút gì ăn, anh không hẳn đói, nhưng anh nhớ, nhớ những món ăn Trang hay làm… khéo léo và tỉ mỉ nhưng anh hơi bất ngờ đến ngạc nhiên vì các ngăn tủ lạnh trống trơn. Anh lật đật bấm điện thoại cho các con.
 
Ủa, thế mẹ không còn làm đồ ăn cho tụi con nữa à?
 
Dạ, là mẹ đau bệnh đã 2, 3 tháng nay rồi, mẹ con bị mệt tim dữ lắm, có lẽ phải đặt máy trợ tim….
 
Hiếu im lặng buông máy rồi từ từ, rất lừ đừ vô giường nằm, anh lại ngủ vùi vì uống prozac. Lúc ở trong bệnh viện, anh có lần loáng thoáng nghe lọt khi các bác sĩ chẩn định thuốc cho anh, có người đã nói rằng… uống nhiều prozac, patient này có khi sẽ đi tới tendance à sucider… Hiếu vẫn ngủ và mơ màng như thấy Trang đang bị mổ ngực để đặt máy trợ tim… nhìn Trang đang nằm mê man thoi thóp trên bàn mổ, da thịt vợ anh tím, tái… Hiếu giựt mình choàng thỉnh và nhủ thầm với lòng: mình phải xin lỗi Trang, xin lỗi mẹ chúng nó, trước khi quá muộn màng, vì biết đâu lỡ em không hồi tỉnh, vì biết đâu lỡ anh điên rồ mà sucider… trước khi em còn kịp mang đồ ăn về nhà… anh xin lỗi Trang, ngàn lần xin lỗi vì anh quá nặng lời…
 
Tự nhiên anh thấy mình tỉnh táo lạ thường, anh nhớ trong lần thăm nuôi, Trang đã cho anh rất nhiều tiền, nhờ số tiền đó anh gởi mua thêm thuốc sốt rét ở ngoài mang vào trại tù  uống chữa những cơn bệnh nặng, nhờ số tiền đó, có lần anh đã giúp bạn ra tù, rồi cùng anh, ăn đường ngủ trọ và nhứt là mua vé xe đò về Nam… anh đã sống được nhờ số tiền đó!
 
Quả là anh không đúng trong vài năm gần đây, anh đối xử với vợ không đẹp, chỉ khi nào cần nhờ vả điều chi anh mới nói nhẹ nhàng vui vẻ, ngoài ra, nhứt nhứt nói với nàng, anh như khô khan, có chút cộc cằn và ra lệnh! Người ở tù lâu… cạn kiệt tình cảm rồi sao?
 
… Cánh cửa sổ phòng cài không kỹ, chợt gió lùa làm mở toang, ánh sáng tràn vô sáng lòa, tiếng động lạch cạch, cửa đập vô tường, làm Hiếu tỉnh hơn, anh ra khỏi bàng hoàng và trán đẫm mồ hôi!
 
Anh choàng dậy, dứt khoác đi pha cho mình một ly café  sữa… ngon, anh sẽ cố làm sao ngon, đậm đà và thơm như Trang vẫn pha cho anh khi xưa.
 
Phòng ngoài, hai đứa con đã về tới, chúng rù rì nói chuyện rồi có đứa huýt sáo… choto mate kudasai, nhạc chủ đề của bộ phim orféo négro, nhạc ngoại quốc lời việt, tạm dịch “yêu đến muôn đời!“ Uống vơi ly café sữa đặc anh tỉnh táo hơn nhiều, anh nhớ là có lần các con đã nói bên tai, “nếu bố không còn bệnh vơ vẩn hoang tưởng nữa, thì mẹ sẽ về. “ À bây giờ như là bố hết bệnh, hết điên khùng, bố khỏi thiệt rồi chúng mày à… ngủ tốt là bố khỏi bệnh.
 
Một buổi chiều cuối xuân, vào hạ, có nắng hanh vàng rưng rưng ngoài cửa sổ… một buổi chiều êm như một giấc mộng. Hiếu ngồi hút điếu thuốc lá nhẹ bồng bềnh, khói uốn éo lên cao. Hai đứa con lẩn quản với bếp, có tiếng nồi soong va chạm khua nhẹ  vào nhau.
 
… Két, két, két, cánh cửa khô dầu, rung nhẹ rồi im. À, thì ra Trang vừa đẩy cửa vô nhà. Lần này cô sách hait ay hai giỏ khá đầy, giỏ ví đeo vắt trên vai.
 
Thảo mừng rỡ ngó thấy, reo vui:
 
Thuận chạy vội về phía trước, tay đỡ mấy giỏ sách:
 
Ô, mẹ về, mẹ về thiệt rồi, bố ơi mẹ về!
 
Hiếu vịn thành ghế, ngỡ ngàng một giây, rồi như phản xạ, anh lập lại lời con: mẹ về, mẹ về thiệt rồi…
 
Chúc Thanh, mùa Vu Lan 2025

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.