LTS. Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, nguyên Tổng Trưởng Kế Hoạch VNCH, là người được Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ủy thác nhiều công việc trong những ngày tháng cuối, trước khi Sàigòn sụp đổ. Tại Hoa Kỳ, sau 1975, ông là tác giả nhiều cuốn sách được phổ biến rộng rãi như "Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập", "Khi Đồng Minh Tháo Chạy", "Khi Đồng Minh Nhảy Vào", “Bức Tử VNCH – Kissinger và 8 Thủ Đoạn Nham Hiểm”.
Đánh dấu 71 năm kể từ tháng 7 năm 1954 ngày hiệp định Gèneve chia đôi đất nước Việt Nam, mời đọc bài viết tác giả vừa gửi cho Việt Báo.
***
“Đi về Miền Nam, miền hương thơm bông lúa tràn ngập đầy đồng;
Đi về Miền Nam, miền xinh tươi đất rộng cùng chung nguồn sống”
Và cứ như thế, với tiếng hát trong tâm tưởng, từng đoàn người gồng gánh ra đi. Họ đi về hướng Nam giống như cha ông của mình từ bao nhiêu thế kỷ trước. Bây giờ lại còn một động lực mới và mãnh liệt khác, đó là đi tìm tự do: ‘chúng tôi muốn sống!’, như tên gọi một cuốn phim nổi tiếng của đồng bào di cư sau này. Cuối tháng 6, dù hiệp định đình chiến chưa ký kết nhưng quân đội Pháp và Quốc gia đã rút lui khỏi nhiều địa điểm ở đồng bằng Bắc Việt nên nhiều người bắt đầu di tản về các đô thị, đặc biệt là Hải phòng. Trong số này giáo dân vùng Phát Diệm - Bùi Chu là lớp người ra đi đầu tiên. Tuy nhiên phong trào di cư chỉ thực sự bắt đầu khi Hoa kỳ giúp chính phủ Quốc Gia Việt Nam phát động một kế hoạch gọi là ‘Sang phía Tự do’ (Passage to Freedom) vào tháng 8, 1954.
Hầu hết đoàn người di cư lúc ấy, trong đó có tác giả, chỉ biết là Mỹ giúp họ đi tìm tự do chứ không ai biết lý do sâu xa hơn nữa của cuộc di tản này. Thực ra thì lý đằng sau lý do nhân đạo, lý do chính yếu là sự sắp xếp khác ở hậu trường.
Mỹ bí mật khuyên Pháp không nên điều đình với Việt Minh
Sau Điện Biên Phủ, Mỹ nhất mực khuyên Pháp không nên điều đình ngưng chiến khi đang thua trận, nhưng Pháp không nghe. Ngay từ tháng 7, 1953, khi có hội nghị tại Panmunjom để bàn về việc ngưng chiến ở Triều Tiên, Ngoại trưởng Pháp Georges Bidault (1899-1983) đã nói với Ngọai trưởng Mỹ John Foster Dulles rằng ‘nhân dân Pháp sẽ không thể hiểu tại sao một giải pháp ngưng chiến được coi như là thích hợp cho Triều Tiên mà lại không thích hợp cho Đông Dương?’ Dulles trả lời:
“Điều đình khi không có sự lựa chọn nào khác thì thường đi tới thất bại. Trong trường họp Triều Tiên thì chúng tôi có sự lựa chọn, phía Cộng sản hiểu rõ lời cảnh cáo của Hoa Kỳ là chúng tôi sẽ dùng một phương tiện không mấy tốt đẹp mà chúng tôi có sẵn trong tay (khí giới nguyên tử) để giải quyết nếu họ không đồng ý và theo đuổi một sự lựa chọn khác.”
Nhận xét rằng thắng trận là cần thiết cho bất cứ hòa đàm nào, Dulles khuyên Pháp hãy cố tiếp tục Kế Hoạch Navarre để chiến đấu, dù không phải là để chiến thắng thì ít nhất cũng làm cho Pháp ở vào thế mạnh hơn nếu phải thương thuyết về hòa bình. Vì Pháp đang thua trận, Hoa Kỳ không muốn đi tới một hòa đàm, nhưng trước áp lực rất mạnh của Pháp sau cùng tại cuộc họp các Bộ trưởng Ngoại giao ở Berlin vào tháng 2, 1954, ông Dulles đã phải miễn cưỡng chấp nhận ghi vấn đề Đông Dương vào nghị trình của Hội nghị Geneva cho gọi là có.
Chính phủ Bảo Đại cùng với Hoa Kỳ phản đối chia cắt lãnh thổ
Tuy đã ghi vào nghị trình, nhưng trong thực tế, ông Dulles lại có những hành động bất cộng tác. Ngày 2 tháng 5, 1954 ông gửi điện văn cho Thứ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ, ông Bedell Smith, người cầm đầu phái đoàn Mỹ tại Geneva, nói tới những chỉ thị rõ ràng đã được Tổng Thống chấp thuận để hướng dẫn phái đoàn Mỹ khi Hội nghị bước vào giai đoạn bàn định về vấn đề Đông Dương:
“Ông không được thương thuyết gì với phái đoàn của Trung Quốc hay của bất cứ nước nào mà không được Hoa Kỳ công nhận về ngoại giao…theo bất cứ thể thức nào nếu nó dẫn đến sự nhận định sai lầm về chỗ đứng của chính phủ đó.”
Nhắc lại cho ông Smith về mục đích giới hạn của việc Mỹ tham gia Hội nghị Geneva là khác với mục đích của Pháp và Anh, ông Ngoại trưởng thêm:
“Việc Hoa Kỳ tham dự vào hội nghị Geneva trong giai đoạn bàn về vấn đề Đông Dương chỉ là để giúp cho Hội nghị đi tới những quyết định có thể giúp cho các dân tộc nơi đây được sống trong hòa bình, độc lập về lãnh thổ và chính trị, và có được những chính phủ ổn định và tự do…Điều này có nghĩa rằng những dân tộc này không bị sáp nhập vào khối Cộng sản độc tài đế quốc…
Rồi ông Dulles di tới kết luận về vai trò của Mỹ tại Hội nghị:
“Nếu ông nhận xét rằng việc tham gia vào hội nghị trong giai đoạn này có thể dẫn tới việc Hoa Kỳ phải liên lụy vào kết quả của một giải pháp trái với chính sách của Hoa Kỳ thì ông phải báo cáo ngay về chính phủ và đề nghị Hoa Kỳ nên rút ra khỏi hội nghị hoặc là giới hạn vai trò của Hoa Kỳ chỉ là một quan sát viên.”
Dulles
Quốc Gia Việt Nam thực thi quyền tự quyết dân tộc tại Geneva
Về phía chính phủ Bảo Đại thì sau bao nhiêu cố gắng để thôi thúc Pháp trả lại độc lập cho Việt Nam, sau cùng vào ngày 28 tháng 4, 1954 (gần lúc hấp hối của Điện Biên Phủ), chính phủ Pháp mới tuyên bố trong một thông cáo chung Việt-Pháp là kể từ nay, Pháp trả lại ‘độc lập hoàn toàn’ cho Việt Nam. Đây là kết quả của những cuộc thương thuyết rất khó khăn giữa hai bên bắt đầu từ tháng 7, 1953.
Trên căn bản hoàn toàn mới này, chính phủ Bảo Đại liền thực thi ngay quyền tự quyết dân tộc tại Geneva. Ngay từ khi Hội nghị bắt đầu, vì nghi ngờ rằng Pháp sắp đi tới việc chia đôi đất nước (giống như giải pháp ở Đại Hàn và Đức quốc) Việt nam đã yêu cầu Pháp phải cam kết bằng văn bản rằng sẽ không thương thuyết về việc việc phân chia lãnh lãnh thổ và Pháp đã đồng ý, nhưng ngày 12 tháng 6 thì chính phủ Joseph Laniel sụp đổ và tân chính phủ Pierre Mendès-France đã thay đổi lập trường. Ngày 17 tháng 6, Quốc Hội Pháp đề cử ông làm thủ tướng với số phiếu 419 trên 466 (90%), phản ảnh tinh thần chống chiến tranh vào lúc ấy. Ông này tuyên bố ngay:
“Tôi đã nghiên cứu hồ sơ kỹ lưỡng và thận trọng. Tôi đã thăm dò các nhà chuyên môn quân sự và ngoại giao nổi tiếng. Quan điểm của tôi được xác nhận là một sự điều đình ôn hòa có thể thưc hiện được.
“Vậy thì việc ngưng bắn phải thực hiện tức khắc. Chính phủ do tôi thành lập quyết định - và họ cũng xác định với đối phương của chúng ta - rằng việc này phải hoàn thành nội trong một thời hạn là bốn tuần lễ. Chúng ta đang họp hôm nay là ngày 17 tháng 6. Tôi sẽ đến trước quý vị vào ngày 20 tháng 7, và sẽ báo cáo cùng quý vị kết quả đạt được.”
Tại Washington, bầu không khí hết sức bi quan vì cho rằng thế nào rồi Chính phủ Mendès France (bắt đầu hoạt động từ ngày 18 tháng 6, 1954) cũng sẽ đi tới một hiệp định đình chiến.
Ngày 12 tháng 5, 1954 đến lần đại biểu của chính phủ Quốc Gia Việt Nam phát biểu. Trưởng đoàn là giáo sư Nguyễn Quốc Định hùng biện chống đối việc chia cắt đất nước, nói lên những thành quả của chính phủ Quốc gia từ Hiệp Định Élysée (8 tháng 3, 1949): đã thống nhất đất nước, được độc lập (trong Liên Hiệp Pháp), tạo được một đạo quân quốc gia, được 35 nước công nhận, và đặt nền móng cho một hệ thống hành chính hữu hiệu. Và bây giờ (sau khi Quốc hội Pháp phê chuẩn Hiệp Ước Độc Lập ngày 4 tháng 6, 1953) đã thành một quốc gia hoàn toàn độc lập và thống nhất. Lập trường chống chia cắt đất đai được Trưởng phái đoàn Mỹ, Tướng Bedell Smith nhiệt liệt ủng hộ, nhưng Pháp và Anh hoàn toàn im lặng.
Một kế hoạch bí mật 7 điểm
Sau khi thảo luận thật lâu, Anh và Mỹ đã đồng ý về một kế hoạch 7 điểm để yêu cầu Pháp phải gói ghém cho bằng được vào bất cứ hiệp định nào được ký kết, theo đó có bốn điểm quan trọng:
- Giữ lại tối thiểu là một nửa nước Việt Nam ở phía Nam, và nếu có thể thì nên giữ lại một cứ điểm ở ngay miền Đồng bằng Bắc Việt. Ranh giới chia đôi không thể chỉ nằm ở dưới một tuyến đi từ Đồng Hới sang phía Tây;
- Không có những quy định nào có thể dẫn tới việc mất đi phần đất còn lại cho Cộng sản;
- Không có những điều khoản nào ngăn cấm việc cuối cùng là sẽ đi tới thống nhất bằng phương pháp hòa bình;
- Phải có điều khoản cho phép việc chuyển vận dễ dàng và nhân đạo số người muốn di cư từ khu vực này sang khu vực khác tại Việt Nam; và
Ngày 6 tháng 7, Đại sứ Mỹ ở Paris, ông Dillon đánh điện về Washington nói Pháp đồng ý về 7 điểm này nhưng muốn hiểu rõ hơn về vấn đề tổng tuyển cử để đi tới thống nhất. Ngay hôm sau, Dulles trả lời rằng ý Hoa kỳ muốn nói là cần phải cho Miền Nam một lối xả hơi (breathing spell):
“Vì tổng tuyển cử rất có thể sẽ dẫn tới việc thống nhất Việt Nam dưới quyền ông Hồ Chí Minh, như vậy lại càng phải hoãn lại càng lâu càng tốt sau khi đình chiến, và chỉ có cuộc tuyển cử trong điều kiện tự do, không bị hăm dọa, để cho những phần tử dân chủ (tại Miền Nam) có một cơ hội tốt nhất.”
Thấy Pháp không rõ ràng về vấn đề này, Dulles dọa là nếu có những điều khoản trái ngược với 7 điểm do Anh-Mỹ đòi hỏi, Hoa kỳ sẽ có thể công khai không nhìn nhận hiệp định. Mendès France đồng ý ngay, và ngày 14 tháng 7, ký với Dulles một văn bản xác định vai trò của Mỹ tại bàn hội nghị chỉ là ‘một quốc gia thân hữu,’ chỉ là phụ đối với vai trò chính là ba Quốc gia Liên kết và Pháp, và Pháp công nhận 7 điểm này.
Bí mật về ranh giới chia cắt: từ vĩ tuyến 13 đẩy lên 17 để thêm đất cho Miền Nam
Cuối tháng 6, phái đoàn Mỹ tại Geneva báo cáo về Washington là cả Nga và Trung Quốc đều lo ngại về sự can thiệp quân sự của Mỹ tại Đông dương. Bởi vậy, Nga thì tìm cách dàn xếp một thỏa hiệp để Pháp giữ lại một khu vực ở miền Bắc, Trung Quốc thì đồng ý sẽ làm áp lực với Việt Minh để chấp nhận giải pháp hai giai đoạn: giai đoạn đầu là quân sự tức là ngưng chiến, rồi mới tới giai đoạn hai là chính trị: tổng tuyển cử. Báo cáo thêm: “Theo Chauvel, ông Chu Ân Lai đã có lập trường mới hẳn, đó là công nhận có hai chính phủ ở Việt Nam. Và đây là lần đầu tiên ông Chu công nhận Chính phủ Miền Nam là một chính phủ hợp pháp.” Tân thủ tướng Pháp, ông Mendès France còn yêu cầu ông Chu áp lực với Hà Nội để sớm đi tới một hiệp định, ông Chu đồng ý giúp.”
Đối với địa điểm để chia cắt, lúc đầu Pháp đòi chia ở vĩ tuyến 18, sau đó đòi đưa lên vĩ tuyến 19, tức là từ đồng Hới tới Thakhek (Lào) về phía tây. Ngày 3 tháng 7, Chauvel cho hay phía Việt Minh đòi chia ở vĩ tuyến 13, tức là từ khoảng Tuy Hòa. Phía Nga cho hay sở dĩ như vậy là vì trong thực tế, ba tỉnh phía nam Faifô (Đà Nẵng) đã ở dưới quyền kiểm soát của Việt Minh, đó là Quảng Ngãi, Qui nhơn và Sông Cầu.
Về phía Pháp, một mặt thì nhờ Nga Xô và Trung Quốc làm áp lực với Việt Minh, mặt khác Mendès France giữ vững lập trường về ranh giới, và chỉ thị cho phái đoàn Pháp ở Geneva phải tránh né, đừng tỏ ra rõ là đang quá hăm hở đi tới một giải pháp mà phải nhân nhượng về ranh giới. Chỉ thị rất rõ ràng là: “Hãy đừng có vì hạn chót do chính tôi (Mendès France) đưa ra là ngày 20 tháng 7, mà chấp nhận vĩ tuyến 13 làm ranh giới, vì hạn chót này có thể uyển chuyển.”
Sau cùng, theo như hồ sơ nội bộ Hoa kỳ, “những nhượng bộ từ phía Cộng sản đã đưa tới một giải pháp về căn bản, là đã gói ghém tất cả 7 yêu sách của Mỹ-Anh.’
Ông Mendès France rất tự hào rằng chính ông đã tranh đấu để kết quả về ranh giới chia đôi là vĩ tuyến 17, chứ không phải là vĩ tuyến 13 như Chính phủ VNDCCH đòi hỏi. Nhưng dựa vào Hồi ký của lãnh đạo Liên Xô Nikita Khrouchtchev, ông Bảo Đại cho rằng thực ra “Họ (Việt Minh) đã sẵn sàng chấp nhận vĩ tuyến 18 hay cao hơn nữa. Họ không ngờ là Pháp lại chịu đầu hàng dễ dàng như vậy.”
Bình luận về lúc kết thúc Hội nghị Geneva, ông Bảo Đại viết thêm: “Ván bài đã được kết thúc dứt khoát, vào phiên họp cuối cùng, ngày 20 tháng 7. Người ta phải vặn lại đồng hồ vào nửa đêm của phòng hội nghị, để không thể quá thời hạn của ông Mendès France đã ấn định. Ông này như vậy là đã thắng cuộc. Thể thức đình chiến đã được ký kết bởi đại diện của hai viên Tổng tư lệnh. Tướng Henri Delteil ký thay cho Tướng Paul Ely, và ông Tạ Quang Bửu ký thay tướng Võ Nguyên Giáp (đã trở thành Tổng tư Lệnh Quân Đội Nhân Dân Việt Nam).
Ngày 21 tháng 7 hội nghị bế mạc bằng một Thông Cáo Chung, chỉ do hai viên Tổng thư ký của hội nghị ký.
Hiệp định Geneva được ký kết với những điều khoản chính:
- Chia đôi nuớc việt Nam ra thành Miền Bắc và Miền Nam ở vĩ tuyến 17;
- Một cuộc tổng tuyển cử sẽ được tổ chức hai năm sau, vào ngày 20 tháng 7, 1956 để thống nhất đất nước; và
- Một Ủy Ban Quốc Tế Kiểm Soát đình chiến được thành lập; và
- Một thời hạn là 300 ngày được quy định cho thời gian để hoàn tất cuộc chuyển quân; trong thời gian ấy, người dân của cả hai bên được tự do di chuyển từ khu vực kiểm soát của bên này sang vùng kiểm soát của bên kia.
Cả hai phía Hoa Kỳ lẫn Chính phủ Miền Nam đều không ký vào hiệp định. Hoa Kỳ chỉ có một văn bản để tuyên bố rằng ‘sẽ không dùng võ lực để can thiệp vào hiệp định, nhưng sẽ coi là trầm trọng nếu có những tấn công mới, và coi đó là đe dọa hòa bình và an ninh quốc tế.’
Về phía chính phủ Miền Nam, Ngoại trưởng Trần Văn Đỗ khẳng định ngày 21 tháng 7:
“Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận một cách chính thức rằng Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết Hiệp Định cũng như những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt. Chính phủ Việt Nam yêu cầu Hội nghị ghi nhận rằng chính phủ tự dành cho mình quyền tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện thống nhất, độc lập và tự do xứ sở.”
Ông Bảo Đại viết lại là ‘sau ngày ký hiệp định, Sàigòn treo cờ rũ, tân Thủ Tướng Ngô Đình Diệm long trọng lên tiếng chống lại sự bất công, đã giao cho Cộng sản tất cả Miền Bắc đất nước, lại thêm bốn tỉnh ở Miền Trung...”
Bí mật đằng sau chiến dịch ‘Sang Phía Tự Do’
Sau Geneva, Ngày 3 tháng 8, Tình Báo Quốc Gia Hoa Kỳ nhận xét về tình hình Đông Dương thật đen tối. Văn kiện NIE (CIA) số ‘63-5-54’ đánh giá về tình hình khẳng định là Việt Minh sẽ thắng trong cuộc tổng tuyển cử do Hiệp định Geneva ấn định:
“Việc ký kết những Hiệp Định tại Geneva đã đưa tới việc quốc tế công nhận quyền lực về quân sự và chính trị của Cộng sản tại Đông dương, và đã trao cho quyền lực ấy một căn cứ địa dư rõ rệt để hoạt động…
Chúng tôi tin rằng Cộng sản sẽ củng cố quyền lực tại miền Bắc Việt Nam một cách dễ dàng…Dù sao đi nữa, từ bàn đạp ở lãnh thổ này, Việt Minh sẽ tăng cường những hoạt động của Cộng sản trên toàn lãnh thổ Đông Dương…
Và cũng có thể rằng vào một thời điểm nào đó trong hai năm tới, chính phủ Miền Nam có thể bị lật đổ và tước đoạt bởi những thành phần muốn điều đình với Miền Bắc để đi tới thống nhất dù rằng dưới sự thống trị của Cộng sản.
Nếu cuộc tổng tuyển cử (như được ấn định tại Geneva) được tổ chức vào tháng 7, 1956, và nếu Việt Minh không làm việc gì phương hại tới triển vọng chính trị của họ, thì hầu như chắc chắn là Việt Minh sẽ thắng cử...”
Tại Washington, Chính phủ Eisenhower tính toán là cuộc tổng tuyển cử để thống nhất đất nước do Hiệp định Geneve ấn định vào hai năm sau sẽ hết sức bất lợi cho Thế giới Tự do, đó là vì dân số hai miền Bắc - Nam không đồng đều. Cho nên phải làm sao cho cán cân được thăng bằng: cổ động và vận chuyển thêm cho thật nhiều người từ Miền Bắc vào Miền Nam. Công việc này được trao cho Đại tá Edward Lansdale (1908-1987). Ông là người đã từng hoạt động trong cơ quan tình báo Hoa Kỳ OSS (sau này thành CIA). Một kế hoạch ‘Sang Phía Tự do’ được soạn thảo với hai mục tiêu chính:
- thứ nhất, phải tác động cho thật nhiều người Bắc di cư vào Nam; và
- thứ hai, giúp vận động công luận quốc tế yểm trợ tối đa cho công tác này.
Về số người di cư, ông Landsdale đặt ra mục tiêu là phải thúc đẩy và chuyên chở được khoảng hai triệu người. Nếu di chuyển như vậy thì dân số miền Nam sẽ cao hơn dân số miền Bắc. Dân số Miền Bắc lúc ấy là 13.6 triệu, nếu di chuyển vào Nam 2 triệu thì Miền Bắc chỉ còn có 11.6 triệu đang khi dân số Miền Nam từ 12 triệu sẽ tăng lên là 14 triệu.
Cuối cùng số người di cư lên trên một triệu người nếu kể cả người dân và quân nhân, công chức. Như vậy là chỉ bằng một nửa mục tiêu của ông Lansdale, nhưng nhân dân hai miền cũng đã xấp xỉ bằng nhau là 13 triệu người. Việc chuyên chở đoàn người di cư kéo dài từ ngày 18 tháng 8, 1954 cho tới ngày 20 tháng 5, 1955, hai ngày sau hạn chót của thời hạn 300 ngày được phép di tản.
Các làng di cư mọc lên khắp nơi, từ Phú Nhuận tới Gia Kiệm, lên Bảo Lộc, ra Phan thiết. Một mô hình định cư được coi là rất thành công, tượng trưng cho viện trợ Hoa Kỳ là dự án Cái Sắn gần Rạch Giá. Nơi đây, 100,000 người cùng với 20,000 người dân địa phương được chuyên chở tới để khai khẩn 270,000 mẫu đất trước đây bỏ hoang. Số người định cư tại Cái Sắn sống rải rác theo các Kênh. ‘Kênh F’ phần đông là người dân tỉnh Thái Bình cư ngụ, nổi tiếng về nghề làm pháo; ‘Kênh G’ (người dân Phát Diệm) làm chiếu; ‘Kênh E’ (người dân Bắc Ninh) sản xuất thuốc lào. Cái Sắn trở nên một biểu tượng thành công của chính phủ Ngô Đình Diệm.
Khoảng 400,000 người được định cư ở Đồng bằng Cửu long, 53,000 ở miền Trung, và 64,000 trên Cao nguyên. Hoa kỳ viện trợ tài chính để trợ cấp cho người di cư sinh sống thời gian đầu, rồi tài trợ ngân sách khẩn hoang lập ấp, cùng với viện trợ kỹ thuật và từng trăm chiếc máy ủi đất.
Sau này khi nói về thành công của Tổng thống Diệm, TT Kennedy viết cho ông:
“Thành tích mà Ngài đã đạt được để đem lại niềm hy vọng
mới, nơi cư trú và sự an ninh cho gần một triệu người lánh nạn
cộng sản từ Miền Bắc đã nổi bật như một trong những nỗ lực
đáng được tán dương nhất, và được điều hành tốt nhất trong
thời đại hiện kim” (thư ngày 26 tháng 10, 1961).
Trong thực tế, việc một triệu người hay trên 7% nhân dân Miền Bắc nhất định từ bỏ tất cả nhà cửa, ruộng vườn, mồ mả tổ tiên để ra đi là một sự lựa chọn lớn lao. Cùng với đại đa số nhân dân Miền Nam lúc ấy, họ đã chọn để đứng hẳn “sang phía Thế Giới Tự Do,’ một sự lựa chọn đầy hứa hẹn nhưng cũng đầy bất trắc.
Nói về bất trắc, nơi đây chúng tôi xin mở ngoặc để nhắc lại một câu TT Nguyễn Văn Thiệu đã tâm sự trong một cuộc phỏng vấn với nhà báo McComb (báo Washington Post) vào cuối tháng 1, 1975 (tác giả có mặt) sau khi mất tỉnh đầu tiên là Phước Long (ngày 6 tháng 1, 1975) nhưng Washington không có phản ứng gì, lại tiếp tục cắt quân viện. Ông nói: “Chúng tôi đã lựa chọn để đứng hẳn sang phía tự do. Làm sao Thế Giới Tự do lại có thể bỏ rơi chúng tôi?” – [sách ‘Tâm Tư Tổng Thống Thiệu’, trang 462].
TS Nguyễn Tiến Hưng
Send comment