Ảnh: Khi đón người bị trục xuất ở phi trường Tân Sơn Nhứt, Ba Lô Project trao cho mỗi người một ba lô, trong đó có các vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim, và $50. (Hình: Ba Lô Project)
PHẦN 2: TRỞ VỀ SAU 30 NĂM VỚI COLLECTIVE FREEDOM VÀ ‘BA LÔ PROJECT’
LTS: Trong Phần 1 – “Trục Xuất Lúc Nửa Đêm” – Việt Báo đã tường thuật câu chuyện của ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, bị bắt giữ khi đi gia hạn thẻ làm việc và bị trục xuất về Việt Nam mà gia đình không hay biết.
Trong phần 2, Việt Báo phỏng vấn Giáo sư Thảo Hà, người sáng lập Collective Freedom, và Lê Bảo Cát của Ba Lô Project (BLP) – hai tổ chức phi lợi nhuận giúp đỡ người bị trục xuất khi họ về đến Việt Nam.
*
Tân Sơn Nhứt sau 30 năm
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.
“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Người nào không có thân nhân, không có tên trong danh sách giúp đỡ của BLP, thì chính quyền địa phương nơi họ từng sinh sống trước khi rời Việt Nam sẽ ra đón. Những người bị trục xuất khi về đến Việt Nam nhận một hộ chiếu và thẻ căn cước công dân có thời hạn sáu tháng. Theo cô K. mô tả, hộ chiếu đóng dấu ở San Francisco, “có nghĩa là khi anh tôi lên phi cơ thì giấy tờ trục xuất đã sẵn sàng hết,” cô nói.
Một tuần sau, hai anh em cô ra phi trường để đón nhóm “hồi hương” kế tiếp. Lần này, cô tận mắt chứng kiến những hình ảnh mà với cô là “không thể hình dung được.” Cô K. kể lại ngày hôm đó:
“Tôi ra phi trường với anh tôi và một người của BLP. Có những người khi đi ‘report’ bị bắt, họ chỉ mặc quần ngắn, áo sơ mi, thêm cái áo khoác. Có người lại bị còng tay phải lấy áo khoác che lại. Bà con đi đón thân nhân nhìn vào thì sẽ không thấy sự khác biệt. Nhưng, có điều này mình để ý, vì không có túi xách gì cả, nên họ bỏ quần áo tù màu cam vào trong cái túi lưới dùng đựng quần áo dơ khi ở trong tù. Họ xách trên tay như thế cùng với một tập hồ sơ đi từ Mỹ về Việt Nam. Nhìn tội lắm.”
Cuộc đón tiếp giữa những người xa lạ nhưng cùng cảnh ngộ kết thúc ở một quán phở gần phi trường. Nơi đây, cô chứng kiến hình ảnh xúc động của một thanh niên khoảng 30 tuổi, rời Việt Nam khi còn bé và đây là lần đầu tiên anh quay về. Cô K. tạm gọi tên anh là A.
“Cậu A. không nói được tiếng Việt, hỏi mượn tôi điện thoại để gọi báo tin về cho mẹ ở Texas, ‘vì mẹ em không biết em về Việt Nam.’ Tôi nghe mà rớt nước mắt,” cô K. kể.
Gia đình của A. định cư ở Texas từ khi đến Mỹ. Sau này anh đi nơi khác làm ăn, rồi dừng chân ở Bolsa. “Xảy ra chuyện ở Bolsa, rồi sau đó em ở lại Bolsa đến bây giờ,” cô K. thuật lại lời cậu A. “Vì không thường xuyên gọi về cho gia đình nên mẹ cậu ấy cũng không biết cậu bị ICE bắt giữ một tháng qua.”
“Tôi gọi về Texas theo số điện thoại cậu A. đọc rồi đưa máy cho cậu ấy. Cậu ra gốc cây đứng nói chuyện với mẹ. Tôi đứng gần đó, canh chừng sợ người ta giựt điện thoại. Hai mẹ con nói chuyện một tiếng đồng hồ. Thấy cậu rơi nước mắt tôi thật xót xa.”
Tô phở thơm lừng, nóng hổi – bữa ăn ngon đầu tiên trên đất mẹ – là chút an ủi ấm lòng do nhóm BLP mang tới cho những người vừa trở về sau những tháng bị giam giữ. Ăn trong lặng lẽ, nhiều người rưng rưng, như thể họ vẫn chưa hiểu được mình đang ở đâu. BLP đưa họ về nhà nghỉ, mỗi phòng hai, ba người. Theo lời cô K., nhóm đã cố tình chọn nơi tạm trú gần khu thị tứ để thuận tiện cho việc ra ngoài mua sắm, nhất là những món đồ cá nhân căn bản cho cuộc sống đời thường mà họ phải bắt đầu lại từ đầu.
“Có người sang ngày hôm sau hỏi chỗ đi cắt tóc để đến chào người bà con của gia đình. Rồi họ rủ nhau đi vô chợ. Ai cũng không có tiền, chỉ có $50 của BLP đổi ra tiền Việt, vậy mà thấy người ăn xin bên đó họ lấy tiền ra cho, còn nói sao ở Mỹ cũng có homeless xin tiền mà không thấy xót như cảnh ở đây,” cô K. kể.
Sau ngày hôm đó, những người này vừa phải hòa nhập vào một Việt Nam quá xa lạ, vừa phải lo những giấy tờ pháp lý để bắt đầu trang đời mới. Nước Mỹ để lại sau lưng. Hiện tại và phía trước của họ là Việt Nam.
Trong khi đó, Collective Freedom và Ba Lô Project lại tiếp tục công việc, lại chuẩn bị “ba-lô” giúp đỡ cho những những trường hợp kế tiếp.
Collective Freedom và Ba Lô Project
Tháng Giêng, 2025, với các sắc lệnh hành pháp của chính quyền mới, nhiều thế hệ trẻ ở Mỹ nhận thấy xã hội bắt đầu bị ảnh hưởng, như y tế, di dân, tị nạn, giới tính… Trong đó có Lê Bảo Cát, một người làm về di trú, ở North Carolina. Cô chia sẻ với Việt Báo:
“Như nhiều người thuộc thế hệ của mình, tôi nhận thấy có một cuộc tấn công, không chỉ vào quyền lợi, mà còn vào chính bản sắc của chúng ta, của cả một thế hệ, của một cộng đồng. Chúng ta đã thấy điều đó trên quá nhiều mặt trận. Rồi những cuộc trục xuất diễn ra, cũng như nỗi sợ bao trùm. Mỗi sáng thức dậy là những tin trong nước, rồi ở Gaza, cơ thể tôi bị phản ứng sinh học, như bị đóng băng. Tôi phải chọn giải pháp, phải làm gì đó, tập trung vào nó, để tất cả chúng ta sẽ trở nên mạnh mẽ hơn. Và tôi nghĩ chính là giây phút đó, như có một lời gọi, hãy làm gì đó, hãy ‘thu dọn hành trang’”
Và đó là thời khắc BA LÔ PROJECT ra đời. Cái tên Ba Lô, vốn tự nó đã nói lên tất cả ý nghĩa. Cũng là “backpack – ba lô” nhưng nó không lạnh lùng, băng giá như tiếng nhắc nhở của quản giáo Adelanto Detention Center, “pack your backpack”. Nó chứa đựng tất cả những gì gọi là tình người, và sự hy vọng.
“Chúng tôi gọi là Ba Lô là có ý nghĩa như thế. Bạn có thể không thích cái tên đó, hoặc không thích việc đưa cho ai đó vài bộ đồ lót, cái áo, kem đánh răng, để họ có một chút gì phẩm giá của người bị trục xuất khi họ ra khỏi trại giam giữ. Tôi không quan tâm người đó là ai. Tôi chọn làm việc mà tôi có thể làm. Thế là hồi Tháng Tư, tôi và Jennifer Huỳnh ngồi với nhau, cùng với 13 người nữa. Ba Lô Project ra đời,” Lê Bảo Cát kể lại qua điện thoại.
Nhóm BLP chính thức hoạt động từ Tháng Tư 2025. Các thành viên làm việc theo hình thức “truyền miệng.” Có khi chính những người bị bắt giữ giới thiệu với người cùng nhà giam tìm đến BLP. Do đó, không phải tất cả những ai bị trục xuất đều có thể có tên trong danh sách hỗ trợ của BLP.
Để có tên trong danh sách được BLP đón ở phi trường, gia đình của người bị trục xuất, hoặc chính người đó sẽ liên lạc với BLP hoặc tổ chức COLLECTIVE FREEDOM do Giáo sư Thảo Hà, giảng dạy Xã hội học và Tư pháp Hình sự của trường MiraCosta College, sáng lập. Cô thành lập Collective Freedom năm 2024, từ ngân sách giải thưởng cô nhận được “2024 Nancy Jamison Fund for Social Justice” – với mục đích hỗ trợ luật pháp và nhập cư, những người bị ảnh hưởng bởi trở ngại pháp lý trong hành trình tái hòa nhập cộng đồng.
“Khi nói về trục xuất, thì sự chia cách gia đình là vấn đề đau buồn nhất của những người đó. Những người ngày xưa phạm tội, rồi vào tù, rồi bây giờ bị trục xuất. Họ nghĩ đến cái hiếu với cha mẹ chưa trả được. Họ lo lắng không biết ai sẽ chăm sóc cha mẹ già, hoặc gia đình, con cái của họ. Đó là vấn đề tinh thần họ phải đối diện,” Thảo nói.
Thỉnh thoảng cuộc nói chuyện qua điện thoại với Thảo Hà bị gián đoạn vì cô cần trả lời điện thoại của gia đình người đang bị giữ trong trại giam chờ ngày trục xuất hoặc của người gọi ra từ trại giam.
“Có một trường hợp tôi từng giúp. Người này bị Ice bắt ngay ở trạm xăng, khi anh đang trên đường đến đám tang của người cha. Gia đình chờ anh đến lễ tang nhưng không thấy, đã gọi cho tôi nhờ tìm giúp.”
Theo phúc trình của cơ quan Thực thi Di trú và Hải quan Hoa Kỳ (ICE), năm 2017, chính quyền Tổng tống Trump đã trục xuất 71 người về Việt Nam. Từ đầu năm 2025, với chính sách di dân trục xuất hàng loạt của thời Trump 2.0, Sở Di Trú Hoa Kỳ đã trục xuất khoảng 300 người Việt ở Mỹ. Hiện tại, Thảo Hà nói, có khoảng gần 400 người Việt đang bị ICE bắt giữ.
BLP sẽ đón người bị trục xuất ở phi trường Việt Nam, trao cho mỗi người một ba lô. Họ được thuê chỗ lưu trú ngắn hạn, được hướng dẫn làm giấy tờ lưu trú ở Việt Nam như thẻ căn cước, hộ chiếu vì họ chỉ có trong tay hộ chiếu sáu tháng. Giáo sư Thảo Hà nói:
“Với hộ chiếu tạm, bạn không thể làm được gì ở Việt Nam, không thể tìm việc làm, không thể thuê nhà ở, không thể đi học… BLP sẽ hướng dẫn những người đó làm hồ sơ để có căn cước công dân Việt Nam.”
Khi kể về trường hợp của anh mình, cô K. có nói rằng với tấm thẻ căn cước và hộ chiếu sáu tháng, anh cô không thể mua hoặc thuê xe gắn máy. Do đó, đi bộ, xe công cộng, là phương tiện duy nhất của họ.
Sự giúp đỡ này, như tâm sự của Thảo Hà, không chỉ là những vật dụng cụ thể, mà còn là một giá trị khác về tinh thần. Những người về đến Việt Nam sau hơn ba thập niên, khác biệt với văn hóa, ngôn ngữ, họ bỡ ngỡ, bị áp lực về tâm lý. Sứ mệnh của BLP là giúp họ vượt qua những ngày tháng đầu xa lạ trên quê hương. Trong nhóm những người tình nguyện viên của BLP ở Việt Nam, có những luật sư hướng dẫn họ làm những thủ tục như mở tài khoản ngân hàng để gia đình có thể hỗ trợ tài chính. Collective Freedom và BLP tìm đến những nhà hảo tâm làm kinh doanh ở Việt Nam để nhận những người bị trục xuất vào làm việc khi họ đã có căn cước công dân.
Từ tháng Tư năm 2025 đến nay, BLP và Collective Freedom đã giúp khoảng 50 người bị trục xuất về Việt Nam. Mỗi người là một hoàn cảnh khác nhau. Trường hợp ông X. Nguyễn là một ví dụ cho một người có gia đình, anh chị em ở Mỹ. Ông có sự giúp đỡ vô điều kiện từ những người thân. Em gái của ông đã bay từ Mỹ về Việt Nam để bên cạnh ông những ngày đầu bỡ ngỡ. Nhưng rất nhiều người khác, không được may mắn đó.
Do đó, tùy hồ sơ, Collevtive Freedom và BLP quyết định có những hỗ trợ khác nhau về thời gian.
Có nhiều trường hợp mà khi ở Mỹ, họ không gia đình, không nhà cửa, từng phạm sai lầm, từng bị tù tội, cuộc sống của họ mỗi ngày là một màu u tối. Giáo sư Thảo Hà nói, cô đã nói chuyện rất nhiều với những người vô gia cư ở Bolsa đã bị bắt, chờ ngày trục xuất. Điều mà cô nhận được từ họ đó là, “họ chờ đợi ngày về Việt Nam,” Thảo nói. “Bị trục xuất về Việt Nam đối với họ như một cơ hội để họ bắt đầu lại từ đầu.”
“Những anh em bị trục xuất có những kỹ năng rất giỏi. Họ cần được hỗ trợ để phát triển nghề nghiệp. Tìm kiếm việc làm là một nhu cầu rất quan trọng với họ,” Bảo Cát cho biết. “Có một công việc để nuôi sống bản thân ở nơi không có thân nhân, dù là cùng ngôn ngữ Mẹ đẻ, là một phần rất quan trọng trong việc thích nghi và ổn định về cảm xúc lẫn tinh thần. Họ đã trải qua quá nhiều biến cố,” Bảo Cát nói.
Cuộc sống ở Mỹ đã là những cánh cửa đóng lại với những người này. Theo phân tích của Thảo Hà, họ không có cơ hội tẩy xóa đi vết chàm mà tay đã vướng phải. Không thẻ xanh, không quốc tịch, thẻ làm việc thì phải đi làm mới theo đúng hạn kỳ cũng là một trở ngại khi xin việc. Do đó, họ hy vọng về Việt Nam như một cánh cửa mở ra cho họ con đường mới.
Để họ có thể tự tin mở ra cánh cửa ấy, Collective Freedom và Ba Lô Project và sự giúp đỡ của cộng đồng chính là chìa khóa. Lê Bảo Cát nhắn gửi: “Tôi mong với sự giúp đỡ và thấu cảm của chúng ta, họ được thay đổi, ít nhất là họ không cảm thấy xấu hổ. Chúng ta ai cũng phạm sai lầm, không ai hoàn hảo. Con người ai cũng xứng đáng nhận cơ hội. Đây là cách chúng tôi hỗ trợ họ, trao họ một cơ hội thứ hai.”
“Nếu chúng ta cùng hiểu những người từng phạm sai lầm đó đã trả xong án tù, 10 năm, 15 năm, 20 năm…, tin rằng họ sẽ không phạm tội nữa, thì hãy cùng lan tỏa lòng trắc ẩn, sự cảm thông đến những cuộc đời,” Giáo sư Thảo Hà chia sẻ.
Kalynh Ngô
Hàng trăm người Việt đang mong đợi những vòng tay cho họ một cơ hội thứ hai trên mảnh đất quê hương đã trở nên quá xa lạ với họ. Đây là hai tổ chức đang hết lòng giúp đỡ và rất cần sự ủng hộ của cộng đồng.
1, Collective Freedom: https://www.collective-freedom.org
2. Ba Lô Project: Jennifer Huynh - Cat Bao Le - www.baloproject.org. Email: [email protected]
Gửi ý kiến của bạn


