Hôm nay,  

Từ Vol de Nuit đến Đời Phi Công

23/08/202516:44:00(Xem: 1758)

VTD 2

 

Nhà văn Pháp Saint Exupéry (1900-1944) nổi tiếng với nhiều tác phẩm nổi tiếng vào những thập niên đầu của thế kỷ XX và nhiều tác phẩm của ông đã được các dịch giả ở Sài Gòn dịch sang tiếng Việt. Với cuộc đời binh nghiệp phi công của ông đã ấn hành các các phẩm L'Aviateur (Người Phi Công, 1926), Courrier Sud (Chuyến Thư Miền Nam, 1929), Pilote de Guerre (Phi Công Thời Chiến, 1942), Le Petit Prince (Hoàng Tử Bé, 1943, Bùi Giáng và Trần Thiện Đạo dịch). Cuốn Vol de Nuit (Bay Đêm, 1931) dày 140 trang là một khúc tráng ca về màn đêm và những con người dũng cảm đi tiên phong trong ngành hàng không. Với tâm hồn nhà văn và kinh nghiệm của một phi công lão luyện đã giúp ông vẽ nên những khung cảnh hùng vĩ đầy sắc màu, đầy thơ mộng nhưng cũng ẩn giấu những nguy hiểm khôn lường dưới đôi cánh bay, kể về những năm tháng sống ở Nam Mỹ đã được giải thưởng Prix Femina của Văn Học Pháp. Tác phẩm nầy do Lê Huy Anh dịch, Văn ấn hành năm 1966.

 

Năm 1934 Saint-Exupéry đã đến Việt Nam làm phóng viên của tờ báo Paris-Soir. Năm 1935 ông tham gia cuộc đua phi cơ Paris - Sài Gòn nhằm phá kỷ lục về tốc độ hàng không. Cuộc thi và trải nghiệm của chuyến bay này tạo cảm hứng sáng tác cho cuốn tiểu thuyết Petit Prince, được đánh giá là kiệt tác và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Chiếc phi cơ Caudron Simoun của Saint-Exupéry cùng với hoa tiêu André Prévot, đã bị rơi phi cơ ở sa mạc Sahara ở Libya trên lộ trình tới Sài Gòn. Họ đã được những người Ả Rập giải cứu và câu chuyện này đã được nhà văn kể lại trong tác phẩm Terre des Hommes, 1939 (Cõi Người Ta – Bùi Giáng dịch). Tác phẩm này được đánh giá rất cao và đã giành giải thưởng của Viện Hàn lâm Pháp.

 

Vì vậy vài tác phẩm nhà văn không quân Saint-Exupéry đã ảnh hưởng phần nào với với những chàng trai thời Việt Nam Cộng Hòa…

 

Ngày 31 tháng 7 năm 1944, Saint-Exupéry lái chiếc phi cơ P-38 Lightning mang số hiệu F-5B-1-LO, cất cánh từ một căn cứ trên đảo Corse với nhiệm vụ thu thập thông tin về quân Đức ở thung lũng sông Rhone. Người ta không bao giờ còn nhìn thấy ông quay về. Một phụ nữ đã nhìn thấy một chiếc phi cơ rơi vào trưa ngày 1 tháng 8 ở gần Vịnh Carqueiranne, thi thể một quân nhân mặc quân phục Pháp cũng được tìm thấy vài ngày sau đó và được chôn cất ở Carqueiranne vào tháng 9.

 

Nước Pháp vinh danh phi công tài hoa dũng cảm, nhà văn nổi tiếng.

vtd 1

 

*

Trên đất Pháp nầy, chàng trai trẻ Sinh Viên Sĩ Quan Không Quân Việt Nam trong chính phủ Quốc Gia Việt Nam du học ra đời với tác phẩm Đời Phi Công của Toàn Phong.

 

Đại Tá Nguyễn Xuân Vinh, Tư Lệnh Không Quan đầu tiên của VNCH, Giáo Sư, Khoa Học Gia, Viện Sĩ Hàn Lâm Viện Không Gian Quốc Tế.

 

Về tiểu sử, danh tiếng, tấm lòng, văn nghiệp của GS Nguyễn Xuân Vinh (1930-2022) là niềm vinh dự và hãnh diện trong Quân Lực VNCH, với cộng đồng người Việt tị nạn hải ngoại đã được đề cập rất nhiều; vì vậy trong bài viết nầy chỉ ghi lại phần nào về tác phẩm Đời Phi Công.

 

Theo lời ông: “Sau ba năm ở Pháp và ở Maroc, 1952-1955, tôi được huấn luyện thành một sĩ quan phi công, có bằng lái phi cơ hai động cơ và thẻ trắng (carte blanche) để bay trời mù theo đúng tiêu chuẩn của Không Quân Pháp. Cũng trong thời gian ở Pháp, tôi hoàn tất chương trình cử nhân toán ở Đại học Marseille và cũng có thêm văn bằng cao học để chuẩn bị thi tiến sĩ toán học”.

 

Năm 1955, sau khi ở Pháp về Việt Nam, trải qua thời gian từ cấp Trung Úy. Quốc khánh 26 tháng 10 năm 1957, ông được thăng cấp Trung Tá và được bổ nhiệm chức vụ Tham Mưu Trưởng Không Quân. Tháng 2 năm 1958 ông được bổ nhiệm chức vụ Tư Lệnh Không Quân, thăng cấp Đại Tá.

 

Theo lời tác giả: “Cuốn sách đầu tay của tôi là cuốn Gương Danh Tướng, là một tập sách nhỏ chưa đến 100 trang, do Nha Chiến Tranh Tâm Lý thuộc Bộ Quốc Phòng in ra vào năm 1956. Tuy sách in ra tới mười ngàn cuốn nhưng dạo đó tôi đang làm phụ tá tùy viên quân lực tại Sứ Quán Việt Nam ở Hoa Thịnh Đốn, nên chỉ nhận được mươi cuốn và đem tặng ngay các thân hữu nên không còn giữ được một bản nào...

 

Gương Danh Tướng khi mới còn đang là một đại úy để nêu lên những đức tính cần phải có của những người lãnh đạo trong quân đội. Cũng nhằm mục đích nêu lên tình người và tình yêu tổ quốc và không gian của những người nặng nghiệp bay mà sau này tôi viết cuốn Đời Phi Công. Nhờ sự phổ biến sâu rộng của cuốn sách này mà giới thanh niên và sinh viên hiểu biết thêm về Không Quân Việt Nam và chúng tôi đã tuyển mộ được nhiều thanh niên ưu tú để gửi sang theo học những khóa huấn luyện bay những phi cơ tối tân của Không Quân và Hải Quân Hoa Kỳ .

 

Với tác phẩm thứ nhì Đời Phi Công “Tôi bắt đầu viết vào năm 1959 và đăng mỗi tuần một kỳ, vào ngày thứ Hai, trên báo Tự Do là một nhật báo có nhiều độc giả trên toàn quốc”.

 

Nhà văn, nhà báo, nhà phê bình văn học Phạm Việt Tuyền (1926-2009) giữ chức vụ Tổng Thư Ký của Hội Bút Việt thành lập ngày 21/10/1957 do nhà văn Nhất Linh làm Chủ Tịch sáng lập, sau đổi thành Trung Tâm Văn Bút Việt Nam. Tác phẩm Đời Phi Công của Toàn Phong do Tự Do ấn hành và nộp dự tranh Giải Văn Chương Toàn Quốc.

 

Trong bài viết Hai Mươi Năm Văn Học Miền Nam & Các Giải Thưởng Văn Chương (1955-1975) của Nguyễn Mạnh Trinh Giải Thưởng Văn Chương Toàn Quốc 1958-1959 do ông Trương Công Cừu khoa trưởng đại học Văn Khoa làm Chủ Tịch.

 

Bộ môn Tiểu Thuyết: Tác phẩm Đò Dọc của Bình Nguyên Lộc, Thần Tháp Rùa của Vũ Khắc Khoan, Đời Phi Công của Toàn Phong, Mưa Đêm  Cuối Năm của Võ Phiến.

Đời Phi Công là truyện vừa, 54 trang, gồm 9 chương. Theo lời tác giả: “Một tuyển tập những bức thư của một phi công viết cho một thiếu nữ còn đang là sinh viên ở đại học để kể cho nàng nghe cuộc đời của những người hàng ngày bay trên gió mây trời”.  Phượng cô em hàng xóm ông dạy kèm ở Hà Nội từ hồi nhỏ. Đầu lá thư ông chỉ viết “Phượng”, trong thư có thêm “Phượng em”!

 

Theo cốt truyện, ông xa Phượng vào đầu tháng 10 năm 1951, theo học tại Khóa I trường Sĩ quan Trừ Bị Nam Định, vào Nam, mất liên lạc với Phượng hai năm, đến năm 1953, khi ông sang Pháp học bay ở Salon de Provence, Paris.

 

Qua 9 chương, mỗi lá thư, không ghi ngày tháng, ông đã kể cho Phượng nghe từ Đường Đời Muôn Nẻo, Ánh Sáng Kinh Thành, Trăng Dãi Bắc Phi, Gió Hải Hồ, Có Một Đàn Chim, Tuyết Trắng, Hội Mùa Hoa, Hẹn Một Ngày Về, Tiếng Gọi Lên Đường.

 

Lá thư đầu tiên:

 

“Phượng, Viết thư này anh đã ở xa em muôn vạn trùng dương. Anh mỉm cười khi đặt bút vì nghĩ rằng em vẫn thường chê cái tính thích giang hồ vặt của anh. Lần này thì anh đi hẳn, đi thật xa cho đến khi nào công thành anh mới trở về…

 

Em cũng như tất cả những người thân tình, cũng như tất cả những người dân Việt chắc hẳn phải đồng ý rằng nước nhà cần có đủ mọi ngành quân lực. Đường đời muôn vạn nẻo anh đã chọn lấy một hướng, dù gian nan muôn trùng anh cũng sẽ mỉm cười dấn bước. Anh mong rằng em sẽ đọc hết bức thư này với một nguồn vui mới trong lòng”.

 

Lá thư thứ ba:

 

“Phượng, Thế là chúng ta giận nhau rồi em nhỉ vì từ sáu bảy tháng nay anh không nhận được thư em để mà đọc những câu thơ chinh phụ dang dở như tình đời ngang ngửa…

Anh đã bắt đầu bay đêm nghĩa là đang trải qua chặng đường chót ở đây. May mắn thì một tháng nữa anh có thể rời khỏi xứ này, rời những cái oi ả để về gần quê hương hơn chút nữa. Anh sẽ thấy đỡ nhớ quê hương hơn, tuy rằng xa cách trọn nửa trái cầu thì gần hơn vài ba ngàn cây số cũng chỉ thế mà thôi...

 

Phượng ơi! Em có thấy không? Với một chân tình thì một chút hương vị mơ hồ cũng là đủ. Phương trời xa em chỉ cần mỉm miệng cười tha thứ ở đây anh cũng cảm thấy. Một ánh trăng rằm mơ màng, một vì sao rơi lạc lõng cũng thừa đủ gây vui buồn cho người bay bốn hướng huống chi là cả một nụ cười rực rỡ, một ánh mắt huy hoàng…”

 

Lá thư thứ tư:

 

“Phượng,

Nhận được thư em đúng dịp đang thi mãn khoá nên đến nay anh mới viết được cho em. Nghĩ thật trẻ con, cái chuyện chúng ta giận nhau em nhỉ. Tự nhiên vắng thư em sáu bảy tháng trời, nếu anh không viết trước cho em chắc em còn giận anh lâu nữa. Làm anh bao giờ cũng phải chịu thua mà. Anh đã chả từng nói với em rằng có những con người sinh ra chỉ để chịu thiệt. Hạnh phúc của em được toàn vẹn là anh mãn nguyện rồi.

Em Phượng! Anh không hẹn cùng em nhưng một ngày kia cánh chim bao giờ cũng quay về tổ cũ. Câu chuyện kèm em học nó cũng chỉ dở dang như một ngày mưa gió các anh ngừng bay. Tại sao em không có gần đây để cùng các anh ngồi quanh một lò than hồng. Sẽ có một ngưòì đã từng qua nhiều bão táp kể lại một câu chuyện xa xưa…”

 

Lá thư thứ năm:

 

“Phượng,

Trái với những lần trước, lần nay anh viết thư cho em ở một nơi xa tất cả thị thành. Cuộc sống của những người phi công như các anh đã là cả một cuộc hợp tấu trái ngược đến nặng nề... Hằng ngày định mệnh quẳng các anh lên không trung, lao vào một cuộc sống bềnh bồng, cô độc, để đợi lúc đèn đô thị vừa lấp lánh, ánh sao hôm chỉ đường cho toán người phiêu bạt tìm về tổ…

Em Phượng! Đêm Noel đã qua rồi và giờ đây anh viết lại cho em những tâm tưởng đã qua tại một nơi xa tất cả thị thành. Trong này là một lò than ấm và ngoài kia là mưa tuyết, là núi rừng Ancelles…”

 

Lá thư thứ tám:

 

“Phượng,

Biết bao nhiêu lần đổi chỗ ở, biết bao nhiêu chuyến đi nhưng rời miền Provence sau một năm học anh không khỏi thấy lòng lưu luyến. Ở đây em đừng nghĩ rằng anh lưu luyến vì ham cảnh lạ đường xa nước người. Đã chả bao nhiêu lần anh nói với em rằng chỉ có non sông nước ta là đẹp với lòng anh. Nước sông Hồng cuồn cuộn, bờ Cửu Long xanh thăm thẳm phải đẹp hơn vạn giải trường giang anh đã gặp. Và chưa có nụ cười nào làm anh thấy bâng khuâng bằng nụ cười của cô em gái quê nhà…

Còn vài tháng nữa anh sẽ trở về nhà. Anh tin rằng anh sẽ là một trong những người lính chiến đấu đến cùng để giử lại một phần đất… Em cứ cười lên khi thấy anh bước lên phi cơ và mở máy. Từng cánh chim sẽ rời đất và mang theo đoàn người đi làm phận sự và cũng vì thế mà anh đã trải qua bao tháng ngày gian khổ để luyện tập ở đây...”

 

Và lá thư thứ chín: “Ngày hôm nay đây, khi mà gần một triệu dân đã di cư vào Nam, đáng lẽ anh phải ở nhà để gần Bác, gần em, gần bao nhiêu đồng bào khác thì anh vẫn còn phải lênh đênh nơi này. Giá anh tốt nghiệp sớm hơn chừng hai tháng, có lẽ anh đã có dịp chở những đồng bào cuối cùng rời Hải Phòng. Nhưng tiếc thay anh về hơi muộn và giờ chỉ còn biết vui mừng khi được tin thân quyến đã được yên hàn tới Sài Gòn…

 

Dòng thư cuối cùng: “Anh ngồi viết cho em một buổi chiều nắng vàng chưa tắt. Ba năm về trước anh đã hứa những gì với em, chắc em còn nhớ. Chỉ độ hai tuần nữa anh sẽ gặp lại em. Nét cười có phác hồn tang hải, mái tóc có phai màu sương gió nhưng anh vẫn còn là anh của em như độ nào. Anh rời em một ngày đông lạnh lẽo ở Hà Thành và sẽ gặp lại em vào cuối một mùa xuân ở đô thị Sài Gòn. Non nước kinh kỳ đà rời chỗ, còn em của anh có khác xưa không?”

 

Tác phẩm Đời Phi Công đã có ảnh hưởng rất mạnh vào lớp thanh niên lúc đó. Hình ảnh người phi công trở thành một biểu tượng của thời đại đầy nét hấp dẫn với tuổi trẻ. Những bức thư gửi cho người tình tên Phượng đã thành những ấp ủ trong mộng của cả một thế hệ thanh niên. Có nhà phê bình cho rằng “Cuốn sách đã tạo nhiều ảnh hưởng, được tái bản nhiều lần và hàng ngàn người trai trẻ nô nức gia nhập Không Lực để thực hiện lý tưởng và hoài bão của mình trong thời chiến tranh khốc liệt”.

 

Vài tác giả cho rằng Đời Phi Công của Toàn Phong tựa như Vol de Nuit của Saint-Exupéry, với tôi, không đúng như vậy. Với người đam mê đọc sách như ông và cùng xuất thân nơi đào tạo phi công, dĩ nhiên những tác phẩm của nhà văn Pháp có thể là nguồn cảm hứng sau 4 năm về nước phục vụ trong quân ngũ. Ông không viết hồi ký như Saint-Exupéry mà qua những lá thư chia sẻ cho người em gái nhỏ, người tình.

 

Những lá thư tình rất hay, chia sẻ buồn vui, giận hờn, an ủi khi xa nhau thuần túy trong tháng ngày binh nghiệp, không đề cập đến việc học hành ở đại học. Những lá thư nầy không viết từ Pháp mà khi trở về Việt Nam với kỷ niệm xưa.

 

GS Nguyễn Xuân Vinh cho biết, hồi còn học sinh đã đọc tác phẩm Les Grands Coeurs của văn hào Ý Edmond De Amicis. Bản tiếng Việt với Tâm Hồn Cao Thượng qua bản dịch của nhà giáo Hà Mai Anh, ấn hành năm 1944 rất hay coi như “sách gối đầu giường”. Với 60 trang hồi ký và lá thư từ Ngày Khai Trường đến Trang Cuối Cùng Của Mẹ Tôi.

 

GS Nguyễn Xuân Vinh với những công trình biên soạn trong lãnh vực khoa học, không gian… Tác phẩm Theo Ánh Tinh Cầu, truyện ký ấn hành năm 1991. Theo lời ông: “Tôi đã viết ra hai cuốn sách về khoa học không gian với những tựa đề là Hypersonic and Planetary Entry Flight Mechanics và Optimal Trajectories in Atmospheric Flight. Những Năm 1993 tôi có viết thêm cuốn sách với tựa đề Flight Mechanics of High-Performance Aircraft…”

 

Nếu đọc Vol de Nuit, có những dòng Saint-Exupéry mô tả trong những chuyến bay đêm tâm hồn phi công trên cánh chim sắt giữa bầu trời thì trong những lá thư của Toàn Phong với tâm hồn lãng mạn của nhà văn. Tác phẩm Đời Phi Công tuy mỏng nhưng ảnh hưởng lớn trong “chí làm trai” trong thời chinh chiến dấn thân với “Tổ Quốc Không Gian”.

 

Vương Trùng Dương

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bạn nghe một người nói, nhưng không lên tiếng, bạn suy nghĩ nhưng không bộc lộ. Bạn nén sự giận dữ xuống, bạn bôi xóa sự khinh bạc, bạn chờ cho những lời ca tụng giả dối lắng xuống, bạn giữ lại lời khen ngợi đối với một người xứng đáng thêm một ngày nữa, để nó được nung chín trong lòng.
Cầm cuốn sách mới trong tay, tôi lại nhớ có lần ở quán cafe, Trịnh Y Thư băn khoăn, không biết chúng mình in sách vào thời này có phải là chuyện vô ích không, có phải là quá mơ mộng không. Với đa số, nhất là thế hệ trẻ hơn thì có lẽ là cái gật đầu, nhưng đối với chúng tôi, chúng tôi yêu quý cái vô ích, cái mơ mộng ấy. Tôi xin chia sẻ với quý vị cảm xúc rất riêng của tôi về sách. Nếu không có sách làm sao ta có thể cầm được trên tay cái vật thể nhỏ bé này, một thành quả nhìn bắng mắt cầm bằng tay, chứa đựng trong đó những con chữ đồng hành cùng những phút giây cảm hứng. Không có sách làm sao tôi có thể cảm nhận được trọn vẹn cái sức nặng của hạnh phúc hữu hình trên trang giấy với những dòng chữ ký tặng này? Và khi đọc sách, nghe được tiếng sột soạt khi lật trang giấy, ngửi được mùi giấy mới và cả mùi hương của sáng tạo. Một khi không còn ai in sách nữa thì những tủ đựng sách đẹp đẽ sẽ là món đồ cổ chứng nhân một thời kỳ sách huy hoàng. Và nếu không có sách thì làm sao chúng có được nhữn
Một truyện ngắn kinh điển của văn hào André Maurois, qua bản dịch của nhà văn Thân Trọng Sơn.
Không phải ngẫu nhiên mà Viết Về Nước Mỹ được nhà thơ Nguyên Sa gọi là “Lịch Sử Ngàn Người Viết.” Mà nếu tính cho đến ngày hôm nay, con số “ngàn” ấy chắc đã lên tới chục ngàn, trăm ngàn. Viết Về Nước Mỹ năm nay là năm thứ 25.
Trong không gian tĩnh lặng của một buổi sớm mùa thu tại thủ phủ Sacramento. Trời đã se lạnh, gió mùa vừa sang và những cơn mưa cũng đang bắt đầu nặng hạt, con chắp tay hướng về phương trời xa, nơi pháp thân Thầy vẫn tỏa rạng giữa hư vô. Bao nhiêu lời muốn nói, rồi bỗng hóa thành im lặng, vì làm sao dùng được lời phàm để nói hết công đức, trí tuệ và từ bi của một bậc Thạc đức như Thầy, người mà bốn chúng gọi là bậc minh sư, bậc long tượng Phật Giáo Việt Nam – Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ – người đã hiến trọn đời mình cho đạo pháp, dân tộc và nhân loại.
Khi nói tới những dòng thơ không bao giờ chết, nơi đây chúng ta chỉ muốn nói rằng có những dòng chữ sẽ vẫn được lưu giữ trong ký ức một dân tộc, bất kể là những trận mưa bom, đạn, mìn, đại bác không ngừng bắn vào họ. Và ngay cả khi những tập thơ, các trang giấy có bị đốt ra tro, những dòng thơ đó sẽ vẫn được lưu truyền từ đời này sang đời kia của một dân tộc, nếu họ còn sống sót. Chúng ta may mắn sống trong thời đại của điện thoại thông minh và Internet, nên được nhìn thấy những hình ảnh, đoạn phim, được nghe những tiếng kêu đau đớn từ dưới những đống gạch vụ, và được đọc những đoạn thơ ngắn được gửi ra rất vội từ những người sống sót sau các trận thảm sát. Thế giới này đầy những trận mưa tội ác, từ thảm sát Ukraine tới gạch vụn Gaza...
Trong dòng chảy của Văn học hải ngoại, Trịnh Y Thư là một thành phần cá biệt. Văn chương nghệ thuật với ông trước hết phải đồng nghĩa với cái Đẹp và ông đã áp dụng trong văn thơ cũng như dịch phẩm của ông...
Nhà thơ tên thật Lê Hà Vĩnh, sinh năm 1940 tại Hải Dương. Ông theo gia đình di cư vào Nam năm 1954. Đầu thập niên 1960 ông cộng tác với Nguyên Sa làm tờ Gió Mới. Sau ngày 30-4-1975, ông cùng vợ - Nhã Ca, bị chính quyền Cộng sản Việt-Nam bắt giữ, riêng ông bị giam cầm 12 năm, 1976 -1988.
Nhã Ca, tên thật Trần Thị Thu Vân, sinh ngày 20-10-1939 tại Huế. Nhà văn nhà báo thời Việt Nam Cộng Hoà, sau nhiều năm tháng bị bắt và tù đày sau biến cố 30-4-1975, đã được Văn Bút Thụy Điển bảo lãnh sang nước này tháng 9-1988. Một thời cùng gia-đình sang định cư ở vùng Quận Cam CA, cùng chồng Trần Dạ Từ chủ trương tuần báo Việt Báo Kinh Tế (sau thành nhật-báo Việt Báo và từ tháng 12-2019 trở lại thành tuần báo) rồi thêm Việt Báo USA (San Jose, cùng Sơn Điền Nguyễn Viết Khánh)


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.