Hôm nay,  

Cô Đơn Hoa Nở Về Đêm

06/09/202509:54:00(Xem: 2596)

 91
Minh họa: Khánh Trường

Cô đơn là một cảm tưởng thường xuyên giả dối. Nhiều khi cảm thấy chán chường, không muốn làm gì, không có gì cho thú vị, người ta dán nhãn hiệu cho nó là cô đơn. Nhiều khi thất bại đường tình hay xa cách người yêu, thương nhớ sinh buồn rầu, họ thường xuyên lầm lẫn bệnh tương tư với trạng thái cô đơn. Nhiều khi ở một mình trong một hoàn cảnh hắt hiu hoặc ngớ ngẩn giữa một cảnh trí âm u, mơ hồ, người ta cảm nhận sự trống trải, họ cho đó là cô đơn. Nhất là về đêm khuya, cảm giác thường bị tâm tư kết luận là cô đơn. Cô đơn không phải như vậy. Cô đơn là tâm trạng muốn giết nhưng chưa làm được. Giết ai hoặc giết thứ gì, đối tượng bị giết không quan trọng mà diễn biến trong khi chờ giết chính là sống với cô đơn. Chờ để giết là tâm trạng cô đơn trước khi gặp gỡ sự chết. Nếu đúng như vậy, cô ấy đang cô đơn.

Từ khi dọn về đây, căn nhà nhỏ hai tầng xây cất theo kiểu kiến trúc bùng nổ năm 1950, nhiều cửa sổ và tường kính trong suốt tạo cho căn nhà một sức sống thiên nhiên, nắng luôn tràn ngập. Như con giun đất, cô sợ ánh sáng. Cô thuê người treo màn dày hai lớp che kín tất cả những nơi có kính, ngoại trừ một cửa sổ lớn trên tầng hai nhìn ra hướng tây, nơi ánh sáng không hành hạ cô, nhưng cô có thể nhìn ra thành phố xa xa, con đường trước mặt, hàng xóm bên kia.

Khung cửa sổ như một màn ảnh truyền hình lớn, nó chiếu một bộ phim dài gần như vô tận với sự nhàm chán ít hoạt cảnh. Những nhân vật chính là mây trời. Chúng trôi qua trôi lại, thay hình, đổi dạng, màu sắc chủ yếu là trắng, xám và đen. Nó sáng tạo thêm màu sắc đầy cảm tính lúc bình minh và hoàng hôn. Thỉnh thoảng vài chiếc phi cơ lạnh nhạt bay ngang. Một số chim vội vã xẹt qua vì không có cây để dừng chân. Theo dõi cuốn phim câm nghèo nàn này hàng ngày, cô thấy được nó đang diễn xuất cuộc sống của cô với sự khác biệt là không có bình minh và hoàng hôn, chỉ có ngày và đêm. 

Ban đêm, cuốn phim trở thành trắng đen. Đèn đường mờ mịt, im lặng, ngoài trừ những lúc mưa bão. Cô đã trải qua và vô cảm với những cơn bão đời, những cơn mưa tình, những lần gió lốc phản bội của những người thân quen. "Họ không có trái tim. Họ không có trái tim." Cô đã từng nghĩ như vậy cho đến một hôm cô chợt hiểu ra, chính cây dạ quỳnh đã giải thích điều này, cô mới là người không có trái tim theo cách đã quên mình có trái tim.

Cô không còn tình cảm như một người bình thường, vì vậy bão tố không làm cô sợ. Mưa phùn, mưa lớn, mưa nhỏ không khiến cô buồn bã. Đối diện tâm hồn của cô, tất cả đều bám lên và đọng lại ngoài da, khô khan như hạt bụi, nhớp nhúa như hạt nước dơ, chỉ cần phủi sạch, lau đi, không cần phải nghĩ ngợi. Vậy đó, đời cô chìm lắng, không có gì sôi nổi.

Vì không có trái tim, cô đã vô thức rời xa đời sống quen thuộc, rời xa cha mẹ, rời bỏ anh chị em, rời bỏ thành phố cô lớn lên với bạn bè và kỷ niệm. Cô dọn về đây, một thành phố nhỏ xa lạ ven biển, một căn nhà nhỏ trống rỗng, ít đồ đạc. Cô ngủ trên một tấm nệm cứng đặt trên sàn gỗ. Khu bếp núc sơ sài một vài dụng cụ nấu ăn. Cô ăn rất ít. Nấu nồi cơm nhỏ, ăn suốt tuần không hết. Gọi Uber Eats mang đến vài món ăn từ các nhà hàng xung quanh, cất vào tủ lạnh, hầu hết là phải mang đổ vì ăn không kịp, đôi khi, vì không nhớ để ăn. Trên mặt cánh cửa tủ lạnh và trên mặt bàn trong bếp có dán tờ giấy với hai từ viết chữ lớn và đậm: UBER EATS (và) ĂN. Sự sống của cô dính liền với hai tờ giấy này.

Theo cách suy nghĩ thông thường, cô ta đang trên đường đi vào cõi chết. Trước khi đến đó, cô gặp cô đơn đón chờ. Những nỗi cô đơn cùng cực nằm ở đoạn đường trước khi đối diện cái chết.
 
Làm sao quen với anh ấy, cô không nhớ. Làm sao anh biết cách đến nhà cô, cô không nhớ. Làm sao anh ấy trở nên thân thiết với cô, cô không nhớ. Chẳng có chuyện gì đáng nhớ. Tất cả mọi sinh hoạt đều là những hoạt cảnh lạnh nhạt như phi cơ bay ngang rồi biến mất, như bầy chim xẹt qua vội vã rồi biến mất, như mây trôi qua trôi lại không tạo được bất kỳ một ký hiệu nào đáng lưu ý. Mỗi khi nhìn thấy cây dạ quỳnh, cô nhớ chính anh đã mang tặng cô chậu cây này nhưng tại sao anh không mặc áo quần thì cô không nhớ.

Cô và dạ quỳnh là hai thứ sống trong căn nhà. Anh nói, cây quỳnh ở trong mát không cần phải tưới nhiều nước. Cắm khoảng hơn hai lóng tay vào đất, nếu thấy đất khô, đó là lúc cần tưới nước vào chậu và phun nước lên lá. Chỉ những lúc phun nước bằng cách ngậm một bụm nước vào miệng rồi mím môi thật chặt, lấy hơi phun ra, một bầy hạt li ti phóng tới bám vào lá cây quỳnh như một trận mưa sương, ngay lúc đó cô thường nhớ đến đôi môi anh, dường như lúc nào cũng ướt.

Lúc cô lớn lên khoảng tám tuổi, môi cô lúc nào cũng ướt, cô thích dùng lưỡi đẩy nước bọt ra môi vì yêu thích cảm giác ướt và nhột. Một thứ cô giải trí mà cha cô luôn không vừa ý, nói: "Môi của mày lúc nào trông cũng dơ dáy." Mẹ cô không thương cô, nói "Mày có biết, mày xấu nhất nhà không?" Ba người chị xa lánh cô, nói: "Mày đừng hát, để tụi tao hát với nhau. Mày hát dở ẹt." "Mày không có vú, lấy nịt vú của tao làm gì?" "Ê, đừng chải tóc bằng lược của tao, tao nghĩ, đầu mày có chí." "Sao mày cứ thích ngồi trong bóng tối hoài vậy? Đi ra chỗ khác, coi chừng làm hư mấy con búp bê của tao." Cô không có búp bê. Cô ghét đồ chơi. Tất cả vài quà sinh nhật, quà Giáng sinh, cô lén bỏ vào bao giấy rồi thảy vào thùng rác thương mại lớn sau lưng một siêu thị gần nhà. Cô và họ dính líu với nhau như những sợi chỉ do xã hội cột chùm mà những người trọng mặt mũi như bố mẹ cô không dám cắt đứt.

Cô không nhớ tại sao có nhiều người ghét cô. Những người bạn ở trường xa lánh cô. Bọn con trai không dòm ngó cô. Đám con gái bỏ đi chỗ khác mỗi khi cô đến gần. Trong trường chỉ có một người quan tâm đến cô, thỉnh thoảng hỏi cô một vài câu, đó là anh thầy trẻ, độc thân, anh ấy dạy môn toán. Anh nói cô có ánh mắt kỳ lạ. Nhìn thẳng và chằm chằm, không biết rút lui. "Sao em mặc bộ đồ này cả tuần, không thay đồ khác?" "Em làm toán khá lắm nhưng phải để tâm vào việc học." "Chà, hôm nay em mặc chiếc áo xanh này trông rất được."  Đó là những lúc cô cảm thấy sôi nổi. Nhưng rồi người thầy trẻ đó đã phản bội cô. Anh lấy vợ và dọn đi một thành phố khác. Cô không đến trường nữa. Cả gia đình của cô đều nói giống nhau: "Mặc kệ nó. Nó muốn ngu cứ để nó ngu." Từ đó cô sống với tâm trạng muốn giết.

Anh của cô, đứa con trai duy nhất trong gia đình, không thương cô, cũng không ghét cô, chỉ tội nghiệp cô. Anh học ra trường rồi mở một công ty sản xuất một thứ gì đó, cô không nhớ. Anh trở nên giàu có. Anh giàu lắm. Anh cho cô tiền, nhiều tiền. Những lúc đó, cô cảm thấy ấm áp. Cô mua căn nhà này bằng tiền của anh. Nhưng rồi anh cũng phản bội cô. Anh tự lái phi cơ phản lực nhỏ lên vùng núi đi nghỉ mát, giữa đường bay gặp tai nạn. Cô không nhớ tại sao anh chết. Trong di chúc anh để lại một số tiền và một tài mục ngân khố phiếu lớn cho cô. Mỗi ba tháng, họ gửi tiền lời về trương mục ngân hàng của cô. Điều này, cô nhớ kỹ. Cô viết vào sổ tay để tự nhắc nhở mình.

Có một lần, chị cô nói với cô: "Mày có nhớ lúc mày bỏ học đã bị bệnh nặng gần chết không? Bố phải gọi xe cứu thương mang mày đến bệnh viện vì mày sốt quá 104 độ. Tao tưởng mày đã chết rồi. Một tuần sau, mày về lại nhà. Từ đó, mày mất trí nhớ."

Không phải lúc nào cô cũng quên. Thỉnh thoảng, tự nhiên, cô nhớ lại một số chuyện rồi sau đó lại quên. Sự nhớ đến với cô như những lữ khách ghé ngang. Họ biết quá khứ của cô. Họ kể lại một số chuyện đời của cô, có khi đầy đủ, có khi giữa chừng họ ngưng lại vì đột nhiên họ phải cấp tốc lên đường. Những mẫu chuyện chấp nối lúc mất lúc còn lúc mờ lúc rõ không làm cô tò mò, chỉ nhìn nó như một người không có việc gì làm, xem đỡ cuốn phim không có gì thích thú, màn ảnh diễn ra chuyện gì không quan trọng. Không biết từ lúc nào, cô tập trò chuyện với cây quỳnh. Nói chuyện lớn tiếng và lắng nghe vì Quỳnh nói rất nhỏ. Cô gọi cây là em Quỳnh. Cô thường xuyên cùng em Quỳnh xem phim.

Đối với một người không có trí nhớ cất giữ, lưu tồn, đồng nghĩa với điều cô không có dĩ vãng. Ngày tháng trôi qua như nước chảy ngoài mương mà cô thì ngồi trong nhà, không liên hệ gì nhau, chỉ đôi khi đi ngang qua tấm gương, cô thấy mình già hơn trước. Tuy mất nhiều trí nhớ nhưng cô thích suy nghĩ và chỉ có thể suy nghĩ về hiện tại. Thỉnh thoảng khi trí nhớ trở về, cô bám vào nó để suy nghĩ, tưởng tượng và cô viết xuống để đọc lại vì sẽ nhanh chóng quên đi.

Suy nghĩ là cách sống linh động và duy nhất mà cô sở hữu. Trong thực tế, suy nghĩ luôn dính theo một khúc quá khứ dù chỉ suy nghĩ về hiện tại vì hiện tại chỉ thoáng qua rồi trở thành quá khứ nhanh hơn tiếng vỗ tay. Hồi ức như ánh sáng đèn của chiếc xe chạy trên đường ban đêm, vùng sáng trước mặt bừng rõ nhưng di động, mọi thứ, mọi cảnh vật tiếp tục lùi dần về phía sau, chìm vào bóng tối, dù quay lại nhìn, vẫn chẳng thấy gì. Nhưng cô bận rộn vì đang lái xe và lái khá chậm để thưởng thức những ý nghĩ.

Từ đêm cô khám phá ra cách trò chuyện với cây dạ quỳnh bằng cách nói lớn tiếng những suy nghĩ của mình như đang trò chuyện với ai đó, và tự nhiên trong lòng chậu chằng chịt rễ, từ đống đất bị lớp đá cảnh che trên mặt, có tiếng nói vo ve đối đáp. Đối với cô, em Quỳnh biết nói là một khám phá vĩ đại. Từ đó, những cuộc tâm sự dài ngắn, vui buồn, kể lể xảy ra suốt ngày đêm. Có khi cô và Quỳnh bất đồng ý kiến, cãi nhau, Hầu hết là Quỳnh chịu thua và làm lành trước. Quỳnh dạy cô sức khỏe của im lặng và sức chịu đựng của không di động mà tâm trí vẫn có thể kiểm soát một vùng rộng lớn. Cô dạy lại Quỳnh cách suy nghĩ. Cô nói: “Suy nghĩ là một bẩm sinh nhưng khi suy nghĩ thường xuyên về những điều hóc búa, về những chuyện khó khăn, về những câu hỏi khó trả lời hoặc không bao giờ có thể trả lời, sự thâm luyện lâu dài sẽ biến suy nghĩ thành chuyên nghiệp. Quỳnh, em có biết như vậy không? Chuyên nghiệp có nghĩa là suy nghĩ sâu sắc, cặn kẽ, suy đi, nghĩ lại, em có biết cuối cùng nó gặp thứ gì không?” Dường như lá quỳnh khẽ lung lay.
“Tận cùng của suy nghĩ là nghi ngờ.”

Cô kể chuyện cây Quỳnh biết nói cho anh nghe. Anh lắng nghe rồi bước đến chậu quỳnh, ngồi xuống, thì thầm với nó, Đưa tai gần lá Quỳnh, có lẽ Quỳnh nói quá nhỏ. Khi đứng lên anh nói: “Quỳnh, nó nói nó thương em hơn thương anh.” Cô cảm thấy khó chịu, “thương anh”, thật là khó chịu. Ngay khi anh đi vắng, cô cấm em Quỳnh không được nói thương anh ấy.

Cô thích chìm trong bóng tối, kể cả ban ngày. Chị cô đã có lần hỏi cô, sao thích ngồi trong bóng tối. Họ làm sao hiểu được. Sống trong tối, không ai thấy, là cách sống tàng hình. Ở đó, có thể nhìn ngắm đời sống chân thật hơn. Cô viết trong nhật ký:

Đời sống là hai sinh vật. Một con sống bên trong con người. Một con sống bên ngoài. Hai con đó giao tiếp khít khao với nhau, trao đổi thông tin thành thật, không giấu giếm. Chúng nó cộng tác cùng nhau tạo ra tương lai của một người và tương lai đó sẽ trở thành số mệnh. Sống thực sự, thực tế, không cần quá khứ. Sống chỉ cần tương lai. “Tôi nghĩ rằng nếu tôi cắt đứt liên hệ hoàn toàn với con sống bên ngoài, thi tương lai của tôi chỉ do con sống bên trong định đoạt. Tôi cảm tưởng số phận sẽ an toàn và bình lặng hơn.” Đó là lý do tại sao cô một mình ở mãi trong nhà.

Bây giờ sự cô đơn của cô dường như bị lung lay vì cây dạ quỳnh. Nó thở, nó sống và nó sẽ nở hoa, sinh trái. Cô kết luận, nó hơn cô vì cô không nở hoa, không sinh trái. Cô ghét nó nhưng giữ nó vì nó lôi kéo anh ấy đến gần cô. Anh không phải là người duy nhất vào nhà, còn có một bà mễ, cô không nhớ tên, mà anh ấy đã mướn đến để lau chùi, dọn dẹp nhà cửa. Bà giặt giũ, sắp xếp áo quần, khăn ga giường, làm nhiều thứ lặt vặt. Nhà thiếu đồ dùng gì thì bà tự động mua rồi mang đến.

Bà giúp việc có thân hình tròn trịa, thấp người. Bà ít nói. Chồng chết. Có một đứa con gái đang học đại học. Bà siêng năng. Khi đến nhà, bà làm việc luôn tay. Đôi khi thấy khi cô lười lĩnh, ngồi một chỗ như con cú, bà lôi cô vào phòng tắm, mở nước ấm và tắm cho cô. Vì sợ ướt đồ mặc, bà cũng trần truồng. Hai phụ nữ trần truồng bên nhau thì dễ tâm sự chân thật. Có lần sau khi tắm, bà nói, “Các cậu trẻ ngày nay không thích lông.” Rồi bà dùng dao cạo râu, cạo hết lông của cô. Cảm giác của cô lúc đó vừa rợn người vừa khoan khoái. Trò chơi này tái diễn mỗi tháng một lần, cô cảm thấy sôi nổi. Ngày nào bà có mặt, bà làm thức ăn trưa, và nấu cơm chiều, rồi ngồi một bên, bắt cô phải rán ăn. “Bà tốt hơn mẹ tôi.” Cô nói. Bà cười hiền hòa: “Mẹ là người tốt nhất.” Sau đó, bà nói: “Cậu ấy tốt với cô. Cậu thích phụ nữ ít nói, trầm lặng, không xe xua, không xã giao. Cậu ấy nói khi mướn tôi đến đây làm việc, cậu đã tìm rất lâu mới gặp một người như cô.”

Bà có kinh nghiệm riêng về việc tìm người tình sống chung hạnh phúc. Bà nói: “Tìm một người chồng để sống chung một đời không phải dễ. Tôi có ba đời chồng, hai người trước thì bỏ đi, người sau cùng thì chết sớm. Tôi tự nguyện không lấy chồng nữa, sống độc thân mà nuôi con. Cô có biết không, tôi nghiệm ra, người chồng tốt không cần những điều kiện như giàu có, học thức, đẹp trai, tài hoa, mà chỉ cần có một trái tim tử tế, sợ làm cho vợ con mình đau khổ. Tôi nhận thấy cậu ấy có trái tim như vậy.”  

Cô so sánh anh ấy với cha mình. Thật là khác xa. Một người nói năng nhỏ nhẹ, giọng nói hiền hòa từ một thân xác cao lớn, bắp thịt nở nang. Còn người kia, nhỏ con, có phần nào ốm yếu, nhưng thường xuyên la hét. Những lúc giận dữ, cha cô gầm lên như con cọp bị thương. Giờ đây, cha như cọp, mẹ như kên kên đã không còn nữa. Họ xa vời. Họ đã là quá khứ. Còn hiện tại, chàng trai lực lưỡng này thường ẵm cô nằm ngang trên hai tay đi xuống lầu tắm nắng, cô la làng, anh lại ẵm lên lầu. Đôi khi anh ẵm cô vào thẳng nệm ngủ, bỏ cô nằm lên rồi lặng lẽ đứng ngắm. Cô cảm thấy sôi nổi. Cô không đủ trí nhớ quá khứ để đúc kết về anh, nhưng hiện tại, anh ta cho cô cảm giác an toàn. Đôi khi anh bắt cô nằm sấp giả làm bàn phiếm piano, mười ngón tay anh lướt lên trên lưng. Ở những chỗ cuối câu nhạc, những ngón tay mặt chạy thật nhanh, rồi ngón út chấm dứt nhấn lên mông, khiến cô bật cười. Anh hát không hay nhưng thường chơi piano trên người cô rồi cất giọng đầy cảm xúc: “Oh, my love, my darling I’ve hungered for your touch….” Có khi anh đang lên cao: “Are you, still mine?”, chợt dừng lại la lớn: “Hạnh phúc quá.” Cô cảm thấy sôi nổi. Thật sự rất sôi nổi.

Cây dạ quỳnh dường như hiểu biết chuyện đời của cô. Nó không chỉ chia sẻ tâm tình, kể lại chuyện quá khứ của cô, mà nó còn có nhiều ý kiến, đặt những câu hỏi hoặc gợi ý những điều gì khiến cô suy nghĩ.

“Chị gái, chị có biết anh Tâm là con cháu của dòng dõi binh nghiệp không? Cha của anh trước kia là đại úy của quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Còn anh, đậu xong tú tài là đăng lính đi lực lượng Chó Biển. Anh phải là một người đàn ông khác thường mới yêu chị.” Cô nghĩ, hiện tại quá sức ngắn ngủi, còn tương lai thì không ai biết trước, như vậy biết nhiều để làm gì vì hầu hết sự biết đã thuộc về quá khứ. Còn anh Tâm, cô sực nhớ, tại sao anh ấy lại trần truồng ngủ trên giường của mình? Cố nhớ lại, thì ra cô đã quên mặc áo quần khi đi ngủ. Cây quỳnh nói: "Anh ấy thật lòng yêu chị." Ừ, yêu? Cũng tốt thôi. Rồi cô không nhớ gì về yêu. Đôi khi, cô có cảm giác thích nhìn anh không mặc gì cả như cây quỳnh không mặc áo quần.

Cây dạ quỳnh không biết nhiều về chuyện đời của anh như bà mễ. Dường như anh thích tâm sự với bà. Còn bà, săn sóc anh như anh chăm sóc cây quỳnh. Cô nhớ, có lần bà mễ tâm tình với cô: “Cậu ấy có một quá khứ không được vui. Cha cậu là một người đàn ông hà khắc, đối xử với vợ con theo kiểu quân đội, đặt ra nhiều kỷ luật. Khi cậu ấy đã là học sinh trường trung học, vẫn bị cha cậu phạt như phạt lính, mỗi khi ông không vừa ý những gì cậu đã làm. Mẹ cậu không chịu nổi sự áp bức của chồng, đã bỏ nhà ra đi khi cậu mới mười hai tuổi. Vì vậy, khi vừa trưởng thành, cậu đã đăng lính để thoát ly gia đình, dù cậu là con một.”

Cô nhớ, có một lần, anh nói với cô, anh là thiếu úy lực lượng đặc biệt chó biển nên khi họ cần thì anh phải đi công tác sáu tháng hoặc hơn. Đối với cô, không có gì khác biệt. Anh ở nhà thì thường che ít vải. Anh ra đường thì mặc đầy đủ áo quần. Anh đi đâu cô không biết, tối thường hay về nhà. Anh không làm cho cô bớt cô đơn vì cô vẫn sống với ý định muốn giết. Cô nghĩ, sự có mặt của anh như cánh cửa, khi đóng lại, cô cảm thấy yên tâm và sung sướng. Khi cửa mở ra, cô trở lại bình thường, lặng lẽ. “Quỳnh ơi, chị đã biết tại sao anh ấy trần truồng ngủ với chị.”

Sống trôi qua trôi lại như mây, bất chợt nặng nề rơi xuống thành mưa. Bất chợt, tháng trước, một buổi trưa, anh ẵm cô vào phòng, nằm ôm cô trên nệm, một hồi lâu, anh nói: "Anh sắp phải đi xa, nhưng em không phải lo lắng gì. Anh đã sắp đặt mọi thứ trước sau. Bà Lucia sẽ ghé nhà thường xuyên hơn để trông coi em.” Giọng nói anh lúc nào cũng êm ả, bình tĩnh. Anh tiếp tục: “Sáu tháng sau, anh sẽ trở về. Đây là số điện thoại đặc biệt, chỉ liên lạc với anh khi thực sự cần thiết. Anh sẽ không thể trả lời trực tiếp. Em cứ nhắn vào máy. Anh sẽ gọi lại. Nhớ viết số điện thoại vào nhật ký. Cất tờ giấy này ở hộc tủ đựng xì líp, mỗi khi thay quần lót, em sẽ nhớ."

Cánh cửa đã đóng lại, lần này khá lâu. Tháng ngày câm miệng đi qua, bỗng nhiên, một hôm, cô nôn mửa. Cô nhức đầu. Cô cảm thấy đói bụng nhiều hơn. Bà mễ đút một ống nhỏ như ngón tay vào háng cô rồi lấy ra xem xét kỹ lưỡng. Bà nói, cô có thai rồi. Cây dạ quỳnh cũng nói như vậy:

"Chị có bầu rồi, mai mốt chị sẽ sinh con." …
“Nở hoa? Tôi sẽ nở hoa, sinh trái?" …
"Em cũng mang nụ ngầm hơn hai năm rồi."
"Chừng nào Quỳnh sẽ nở hoa? Chị sẽ gọi anh ấy về. Trước khi đi, anh đã dặn chị như thế."

Vài hôm sau đó, trời mưa lớn, bão cấp ba. Khung truyền hình rung động vì sấm sét và mưa đập vào kính. Hoạt cảnh linh động. Cô không sợ. Bắt ghế ngồi sát cây quỳnh nhìn ra cửa sổ. Giống như giông bão của đời sống, khi nó đến, không thể thấy gì lành lặn, bình thường. Thành phố biến mất. Đèn đường tắt ngúm. Nhà xung quanh đóng cửa tối đen. Chỉ sấm ầm ĩ như lời la hét của cha cô. Chỉ mưa đập chan chát như lời đay nghiến của mẹ kêu lùng bùng trong màn nhĩ. Chỉ không thấy gì, nghe gì, được gì như những khi bị mẹ cha la mắng, cô đã tìm đến những người chị để mong che chở. Những người chị đeo mặt nạ dễ sợ, hù nhát cô. Ý nghĩ đứt ở đây, cô không cách nào nghĩ tiếp.

Trong đêm đó, cô không nhớ lý do gì mà cây dạ quỳnh kể lại cho cô những gì tồi tệ, ghê gớm nhất đã xảy trong đời cô. Cây dạ quỳnh nói: "Lúc đó, chị núp ngoài góc vườn. Chị vẫn thường trốn dù không biết trốn ai. Em cũng không hiểu, tại sao chị phải trốn. Cha mẹ chị đi dạo ngoài sân, họ trò chuyện, chị nghe lén. Đến một lúc, cha mẹ chị bắt đầu than phiền về chị. "

"Ừ, chị nhớ rồi. Họ oán trách chị đã bỏ học, đã chửi mắng thầy cô và cả bà hiệu trưởng trước khi chị bỏ đi và không bao giờ trở lại.  Mẹ chị nói: 'con gái này vừa xấu, vừa ngu, lại vừa dữ. Tại sao tôi lại sinh ra nó? Thật là một tai họa.' Cha chị không suy nghĩ gì, dường như điều này đã có sẵn trong đầu, ông nói: 'Anh nghĩ nó bị bệnh si khờ ở một mức độ nào đó chưa chính thức." Mẹ nói: 'Rồi đây khi lớn lên nó còn gây ra nhiều chuyện tày trời nữa.' Cha nói: 'Chẳng biết phải làm sao, trừ khi nó chết đi.' Mẹ đề nghị, hay là cho chị đi tu, lên chùa học tập, may ra sẽ có kết quả tốt hơn."

Cây quỳnh nói: "Chị té xỉu nằm bất tỉnh trong bụi rậm cho đến gần hừng đông, chị khóc, chị la hét, chẳng ai nghe, cho đến khi chị khàn cổ, đuối sức. Chị lần mò vào nhà, sợ hãi, đau đớn, chị chạy vào phòng người anh, chui vào mền, ôm chặt lấy anh rồi ngủ thiếp đi.

Chị thức dậy vào buổi trưa, nhà vắng lặng không còn ai. Chị thấy đau nhức và máu chảy ở háng. Chị sợ hãi và xỉu một lần nữa. Sau đó là cơn sốt ập tới đun nóng chị lên quá 104 độ. Không phải cha chị gọi xe cứu thương. Người gọi 911 là anh của chị." 

Cô không nhớ rõ, nhưng cơn bão đã đi qua. Cảnh tượng còn xơ xác nhưng hơi thở nhẹ nhàng hơn. Cô nghĩ, cây dạ quỳnh này phải chết. Nó biết cô muốn giết ai, nó biết tên cả ba người đó. Chuyện này là điều bí mật. Cô muốn mà không làm được. Nó phải chết.

Hôm đó, cô nhất định phải giết cây dạ quỳnh. Khi đêm tối bao phủ, cô sẽ ra tay. Lấy một con dao bén để xắt cành lá nó ra từng mảnh nhỏ. Lấy chai thuốc Draino loại hủy hoại rễ cây để ngâm hết các rễ của nó. Nó phải chết một cách tiệt tích, không còn một chút cơ hội nào sống sót. Nó phải bị phơi khô trên cao vì Quỳnh đụng đất sẽ có thể mọc lại. Cô biết, giết Quỳnh là mất đi tiếng nói vo ve chị em tâm sự. Cô đơn khi có Quỳnh sẽ thay vào cô đơn không có Quỳnh. Cô sẽ bắt đầu một cô đơn khác.

Suy nghĩ dẫn cô đến kết luận, khi đã cô đơn cùng cực thì cô đơn nào, mới hay cũ gì cũng giống nhau hoặc gần giống nhau. Như nước lạnh đã đông đá, sau đó, dù độ thấp nào lạnh hơn cũng vậy thôi, chỉ làm nước đá cứng hơn, chắc hơn, nhưng không cho cảm giác tê cứng hơn.

Có điều, trưa đó, tự dưng cây quỳnh nói về chuyện cô đơn, Quỳnh nói với cô: "Nếu một người biết rõ cô đơn một cách sâu đậm, sẽ phấn khởi khi chấm dứt một cô đơn cũ và bước qua một cô đơn mới. Này, chị Cô Đơn, phấn khởi lên. Gọi số điện thoại đặc biệt, nhắn cho anh ấy rằng em sắp sửa sinh con màu trắng, nhụy có sắc đỏ. Em đã bắt đầu nứt nụ ra. Anh ấy biết em là một loài dạ quỳnh đặc biệt mà anh đã bứng em từ trên núi cao hơn hai ngàn mét.  Nhắn với anh, hãy về cùng chị chờ đón con em sẽ ra đời vào một nửa đêm, có lẽ trong tuần tới."

Cô dừng lại ý định giết cây dạ quỳnh và cảm giác có điều gì khác lạ trong không gian. Hình như không khí loãng hơn mọi hôm. Dễ thở hơn và mát mẻ hơn. Hơi thở sung túc, trái tim bớt nặng nề, đầu óc sáng sủa hơn. Có điều gì mới lạ về sự sống. Cô nhìn lên màn ảnh, cửa sổ đang chiếu cảnh nắng trưa vàng rực cả đường đi và thành phố.

Ý muốn nhắn gọi anh ta về càng lúc càng cấp bách. Cô phải nhắn anh về ngay kẻo muộn.  Sáng hôm sau, khi thay quần lót, cô tìm thấy trong ngăn kéo, dưới đống xì líp, tờ giấy ghi số điện thoại viễn liên đặc biệt.

Cô suy nghĩ, muốn nhắn với anh cây quỳnh chuẩn bị nở hoa, nhưng quan trọng hơn, chính cô cũng sắp nở hoa. Chắc anh sẽ vui mừng vì được xem hai lần nở hoa. Nhưng rồi cô cảm thấy sợ, nếu hoa của cô kết thành trái xấu thì sao? Nếu nó vừa ngu vừa dữ thì sao? Nếu nó giống như cô thì sao? Cô nhớ, bà mễ nói, con của cô sẽ giống cậu ấy.

Dù như thế nào thì đời cô sẽ phải thay đổi vì cô sẽ không còn sống để muốn giết, mà cô phải sống với ý định nuôi trái cây kia trở nên tốt đẹp, thơm tho. Cô sẽ không giống mẹ cô mà tập giống bà mễ, nuôi con vào đại học. Cô nghĩ, “làm thế nào để con tôi không giống tôi?” Ý nghĩ ập tới, nhào lộn, xoay cuồng, liên tục thay đổi nhưng không nhức đầu, không hoa mắt mà cảm giác sung sướng, bay bổng. Qua cửa màn hình, dường như cô nghe được tiếng chim hót. Bằng một cách nào đó, có phải cô đang lắng nghe tiếng trẻ sơ sinh đang khóc?

Sau ba tiếng reng, một giọng nói ấm áp, nhẹ nhàng nhưng nghiêm túc của một phụ nữ chuyên nghiệp:
"Xin chào. Đây là số điện thoại đặc biệt chỉ dành riêng cho thân nhân và gia đình liên lạc trong trường hợp cần thiết. Xin bạn hãy bấm dấu “ngôi sao” và khi được chuyển tiếp, xin cho chúng tôi nguyên tên họ và mã số của người cần liên lạc và chúng tôi sẽ cho bạn thông tin hoặc bạn có thể để lời nhắn lại cho đương sự."

Cô làm theo lời dặn: "Anh tên là Lê Tâm, mã số S127. Tôi muốn nhắn tin cho anh ấy." Sau một khoảnh khắc im lặng, tiếng máy trả lời. "Chúng tôi thành thật chia buồn với bạn. Hôm qua chúng tôi đã thông báo trực tiếp với gia đình của anh Lê Tâm về sự hy sinh của anh trong lúc thi hành nhiệm vụ. Hiện nay, chúng tôi đang chuẩn bị đưa thi thể của anh về Hoa Kỳ trong ngày mai. Bạn có thể liên lạc với gia đình anh để tìm hiểu những chi tiết. Một lần nữa, chúng tôi xin thành thật chia buồn. Đây là thông tin ngắn từ trung tâm chiến dịch Bão Sấm."

 

Ngu Yên

Truyện ngắn 5,319 chữ.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.