Tự do ngôn luận không sinh ra để bảo vệ điều dễ nghe. Nó phải che chở điều trái tai, khó chịu, thậm chí gây phẫn nộ. Ảnh: Việt Bào.
“Nếu tự do có nghĩa gì,
thì đó là quyền được nói ra điều người khác không muốn nghe.”
– George Orwell
Sau 1975, ở lại Việt Nam, chúng tôi lớn lên trong lớp học mà bài tập chính không phải toán, văn, sử, địa… mà là học cách im lặng. Một buổi học cô giáo kể chuyện Lê-nin đi vào tiệm hớt tóc, Ông đứng lên nhường ghế cho người già hớt trước. Cô giáo hỏi: “Vì sao?” Tôi giơ tay hồn nhiên: “Ông Lê-nin đầu trọc lóc, vào tiệm hớt tóc làm gì?” Cả lớp cười rộ. Cô giáo thì không. Không cần giải thích, Cô gửi tôi thẳng lên văn phòng hiệu trưởng để “đóng cửa làm việc” – như thể cái đầu trọc của Lê-nin là bí mật quốc phòng.
Bạn tôi thì “tệ hại” hơn. Sau khi đọc xong một bài thơ của Bác, cô giáo hỏi: “Các em thấy thơ Bác hay chỗ nào?” Rồi cô giáo chỉ mặt bạn tôi nói: “Em hãy đứng lên phát biểu.” Bạn im lặng không nói. Cô hỏi tại sao, cuối cùng bạn buột miệng, 'Thưa Cô, em không tìm ra chỗ hay'. Cô sững lại, nhìn bạn như thể không tin nổi, rồi Cô thẳng tay đuổi bạn ra khỏi lớp.
Ởvới cộng sản, tuy còn trẻ con, chúng tôi đã hiểu thấu bài học: không nói theo là có tội, mà nói khác đi lại càng là trọng tội.Bước sang Mỹ, cứ tưởng rằng mọi chuyện sẽ khác vì đây là đất tự nhận là xứ sở tự do, nơi hiến pháp bảo đảm quyền được nói. Nhưng tuần qua, sau mấy chục năm ở Mỹ, tôi bỗng bắt gặp chính mình ngập ngừng muốn nói điều thật: tôi không thích Charlie Kirk, và tôi không muốn “celebrate his life” (tôn vinh cuộc đời ông).
Charlie Kirk là ai? Một gương mặt bảo thủ, sáng lập Turning Point USA, đồng minh thân cận của Donald Trump. Ông nổi tiếng với những phát biểu chống di dân, tấn công đối thủ. Với phía bảo thủ, ông là anh hùng. Với nhiều người khác, ông là tiếng nói cực đoan. Với tôi, lời ông nói là những lời kỳ thị và khinh miệt, như ông từng quả quyết “nước Mỹ đã phạm sai lầm lớn khi thông qua Đạo luật Dân quyền” 1; hay khi ông cảnh báo rằng di dân Nam Mỹ sẽ “đột nhập nhà bạn, hiếp phụ nữ của bạn, bắt con cái bạn đi”2; và ông nói thẳng “nước Mỹ không cần thêm người từ Ấn Độ, chúng ta đã đủ rồi.”3 Những câu nói này không còn là tranh luận chính trị, mà là cách biến một cộng đồng thành mục tiêu của sợ hãi và căm ghét.
Ngày 10 tháng 9, ông bị bắn chết tại Đại học Utah Valley. Cái chết lập tức biến thành mồi lửa chính trị. Quốc Hội nhanh chóng thông qua nghị quyết tưởng niệm; hàng chục dân biểu Dân Chủ phản đối. Một lễ tưởng niệm ở Arizona với hàng trăm ngàn người khóc thương ông được tổ chức long trọng cuối tuần qua khiến tôi nhớ lời Hannah Arendt trong “Truth and Politics” (Sự thật và Chính trị): nếu ngay cả dữ liệu sự thật cũng bị phủ nhận hay bẻ cong theo ý thức hệ, thì “tự do ngôn luận” chỉ còn là trò hề, bởi nền tảng chung để thảo luận đã biến mất.
Ở Arizona, nước mắt đã trở thành nghi lễ tập thể, biến cái chết của một nhân vật chính trị thành một điều thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Khi đám đông đồng loạt gào khóc, không ai dám khác giọng nêu ra điều gì, nước mắt trở thành bằng chứng duy nhất của sự trung thành. Nhưng tự do, nếu còn nghĩa gì, chính là quyền giữ khoảng cách với đám đông ấy, quyền gọi dữ liệu sự thật đúng tên của nó, quyền thấy con người thật của Charlie Kirk qua hành động và lời nói khi còn sinh thời của ông ấy – ngay cả khi đám đông chỉ muốn nghe một điều khác.
Phản ứng sau cái chết của Kirk cho thấy nước Mỹ, dưới lá cờ dương cao “ghét bọn chống đối”* của tổng thống Trump, đang bước vào vùng nguy hiểm. Phó Tổng thống J. D. Vance không ngần ngại: “Khi bạn thấy ai đó ăn mừng cái chết của Kirk, hãy tố họ; thậm chí, gọi báo cho chủ của họ.” Lời kêu gọi ấy trở thành tín hiệu săn lùng.
Hệ quả đến tức thì. Công nhân, nhà báo, quân nhân bị sa thải, đình chỉ chỉ vì vài dòng trên mạng. Bộ Quốc phòng mở cuộc rà soát toàn diện: một số sĩ quan Lục quân bị treo quyền chỉ huy chỉ vì chia sẻ hoặc “like” (bấm thích) những post (bài đăng) trên mạng xã hội bị coi là chế nhạo Kirk. Ở khu vực dân sự, MSNBC đẩy bình luận gia Matthew Dowd ra khỏi cửa sau khi ông cảnh báo rằng môi trường ngôn luận đầy thù hận có thể dẫn tới bạo lực. Đồng nghiệp thừa nhận ông bị hiểu sai, nhưng không ai cứu nổi ông.
Ở Việt Nam, công an và kỷ luật nhà trường ép người ta nín lặng. Ở Bắc Hàn, chính quyền bỏ tù những ai không khóc thương lãnh tụ. Ở Mỹ, hợp đồng lao động, cú nhấp chuột trên mạng xã hội, giấy phép phát sóng… tất cả cũng đủ khóa miệng. Tên gọi khác nhau, bản chất giống hệt: không chỉ buộc im, mà còn buộc phải lặp lại đúng những gì quyền lực muốn nghe. Một bên bắt câm, một bên bắt hát — và ngay cả nước mắt cũng được soạn kịch bản.
Tiếng cười đương nhiên cũng không được tha. Jimmy Kimmel không hề chế nhạo Charlie Kirk; ông chỉ diễu những chính khách lợi dụng cái chết, gọi họ là “MAGA gang” (băng MAGA). Ông mỉa mai Trump chuyển chủ đề sang chuyện sửa phòng khiêu vũ ở Bạch Ốc: “Đây không phải cách một người trưởng thành thương tiếc bạn mình. Đây là cách một đứa trẻ bốn tuổi khóc con cá vàng.” Một câu đùa bình thường, quá quen thuộc với khán giả Mỹ. Nhưng chỉ thế cũng đủ khiến Chủ tịch FCC Brendan Carr hăm dọa: “Chúng tôi có thể áp dụng biện pháp dễ hoặc khó...” – nghĩa là hãy tự lo liệu cho phải đạo, nếu không thì sẽ biết tay. Disney lập tức đình chỉ chương trình đã phát sóng hơn hai mươi năm qua. Nexstar và Sinclair từ chối phát sóng, thậm chí đòi Kimmel phải xin lỗi và đóng góp cho Turning Point USA. Trên mạng Truth Social (Mạng Xã hội Sự Thật), Trump hả hê tuyên bố Kimmel đã “CANCELLED” (bị hủy), rồi kêu gọi thêm Fallon, Seth Meyers cũng phải bị “biến mất”.
Cảnh tượng này khiến nhiều người có trí nhớ liên tưởng đến nước Nga của Putin. Michael Idov, cựu tổng biên tập GQ Nga, kể: khoảng một thập niên trước, mỗi khi một biên tập viên độc lập bị thay thế bằng người trung thành với Kremlin, dân Nga lại mỉa: “links in a fucking chain” (những mắt xích khốn kiếp trong một dây xích) — từng mắt xích siết chặt thêm.
Putin mất cả chục năm để từ kiểm soát truyền hình, sang siết internet và văn hóa thanh niên, rồi bóp nghẹt sân khấu, điện ảnh. Năm 2018, phim “The Death of Stalin” (Cái chết của Stalin) bị cấm hẳn. Đến 2022, sau cuộc xâm lăng Ukraine, không còn ranh giới: chỉ còn ca khúc yêu nước, phim tiểu sử lãnh tụ và những tiếng cười đã qua kiểm duyệt.
Ở Mỹ, kịch bản ấy diễn ra nhanh hơn. Putin hiếm khi trực tiếp ký lệnh cấm; Trump thì tự tay viết: “Get this guy off the air” (Đuổi thằng này khỏi đài ngay). Một bên là KGB lạnh lùng, một bên là tên MC truyền hình quen nắm tay chỉ huy ‘micromanage’ kẻ thù từng giờ. Khác phong cách, nhưng chung một điểm: cả hai đều không chịu nổi tiếng cười nhạo.
Nước Mỹ từng dựng hàng rào pháp lý để che chở tiếng nói:
1964, New York Times v. Sullivan: một chính khách không thể dễ dàng kiện báo chí chỉ vì bị chê. Muốn thắng phải chứng minh nhà báo cố ý đăng tin sai. Nói thẳng: báo chí phải có quyền chạm vào quyền lực, nếu không quyền lực sẽ nghiền nát báo chí.
1969, Brandenburg v. Ohio: lời nói, dù cực đoan, vẫn được bảo vệ, trừ khi kêu gọi bạo lực tức thì. Đây là ranh giới hẹp để xã hội không biến “tôi không đồng ý” thành “tôi phạm tội.”
1943, West Virginia v. Barnette: học sinh không thể bị ép chào cờ. Tự do không chỉ là quyền được nói, mà còn là quyền được im lặng khi không muốn tham gia nghi lễ chính trị.
Những hàng rào này không phải lý thuyết suông. Chúng là bài học máu. Nhưng nếu xã hội, doanh nghiệp, dân cử và người dân đồng loạt cúi đầu, hàng rào ấy biến thành xiềng xích. Khi Nexstar, Sinclair, Disney, Paramount chọn an toàn thay vì bảo vệ tiếng nói tự do ngôn luận, họ chỉ nối thêm mắt xích mới vào sợi xích dài.
Lịch sử nhắc đi nhắc lại những bài học: Socrates phải uống thuốc độc chỉ vì lời ông dạy. Galileo bị buộc rút lại học thuyết Trái Đất quay quanh Mặt Trời, chỉ vì sự thật ấy trái ý quyền lực. Milton viết Areopagitica (Luận văn về Tự do Báo chí): ‘Huỷ một cuốn sách hay là giết chính lý trí.’ Và ở thế kỷ XX, ACLU bảo vệ quyền diễu hành của phát-xít ở Skokie, không phải vì họ đồng ý với phát-xít, mà vì nguyên tắc: tự do ngôn luận chỉ có ý nghĩa khi nó che chở cả những tiếng nói bị căm ghét nhất.
Tự do ngôn luận không sinh ra để bảo vệ điều dễ nghe. Nó phải che chở điều trái tai, khó chịu, thậm chí gây phẫn nộ. Nếu xã hội chỉ giữ lại lời thuận tai, thì tự do chỉ còn là lớp vỏ rỗng. Nếu mọi người đều phải khóc thương một lãnh tụ, thì nước Mỹ đang vượt qua Moscow của Putin tiến đến Bình Nhưỡng của Kim.
Những lời che đậy sự thật hôm nay không phải chuyện nhỏ, mà là sự ép buộc xã hội phải tôn vinh Charlie Kirk như một thánh tử đạo, biến tang lễ của cá nhân Ông thành nghi lễ quốc giáo. Họ đe doạ bất cứ ai dám nhắc đến sự thật về ông, buộc mọi người phải đồng thanh ca tụng, viết lại hagiography (thánh sử ca) cho một kẻ khiêu khích lãnh lương chuyên nghiệp — còn không thì phải lãnh hậu quả.
Charlie Kirk quả thực là một người có tài năng vận động, đã xây dựng hạ tầng giàu mạnh cho phía cực hữu. Nhưng ông cũng là một nhà dân tuý, cổ vũ chủ nghĩa dân tộc Kitô, dung dưỡng thái độ kỳ thị, tấn công tự do ngôn luận, và thậm chí ủng hộ bạo lực chính trị — biến nước Mỹ thành nơi nguy hiểm và bất công hơn.
Tất cả những điều đó không làm cái chết của ông bớt tàn ác. Kirk là một con người, và sinh mạng ông, như mọi sinh mạng, đều đáng được bảo vệ. Bi kịch này không khác gì bi kịch của những học sinh bị bắn chết trong trường học, một thường dân bị cảnh sát bắn trong xe, hay một đứa trẻ ở Gaza chết đói vì nước Mỹ làm ngơ. Chúng ta đang sống trong một đất nước nơi cái chết vì súng đạn rẻ như bèo bọt. Với nhiều người, đó là thảm họa triền miên; với kẻ khác, đó chỉ là cái giá phải trả để gọi là “tự do.” Với Charlie Kirk, đó là cái giá chính ông từng công khai chấp nhận: “Tôi nghĩ cái giá ấy là đáng: chấp nhận mỗi năm vài mạng người chết vì súng, để giữ Tu chính án Thứ Hai bảo vệ các quyền khác Chúa ban.” 4
Charlie Kirk cũng đã nói đúng: "Có những lời xấu xí, thô bỉ, độc ác — nhưng tất cả đều được Tu chính án Thứ Nhất bảo vệ.’" 5 Đám đông ngoài kia hoàn toàn có quyền đồng thanh khóc thương ông, cũng như những người khác hoàn toàn có quyền chỉ ra sự thật xấu xí về ông, hay đơn giản là quyền tự do giữ im lặng không tán tụng ông. Nếu không, thì chúng ta chỉ đổi lớp học cộng sản ở Việt Nam lấy một lớp học đội lốt dân chủ Hoa Kỳ với giáo án tinh vi hiểm độc hơn.
Orwell nhắc: “Trong thời đại dối trá, nói sự thật là một hành động cách mạng.” 6 Và sự thật thì đơn giản: hai cộng hai là bốn, không phải năm. Sự thật cũng rõ ràng: Charlie Kirk không phải là thánh, và cái chết của ông cũng không hơn, không kém cái chết của bất cứ ai ngã xuống vì viên đạn, vì khẩu súng.
Nina HB Lê
Tham khảo và chú thích:
【1】 Charlie Kirk phát biểu rằng Mỹ đã phạm sai lầm lớn khi thông qua Đạo luật Dân quyền. Nguồn: The Guardian
【2】 Charlie Kirk cảnh báo di dân Nam Mỹ sẽ “break into your homes and rape your women, take your children.” Nguồn: Wikipedia – Charlie Kirk
【3】 Charlie Kirk tweet ngày 2/9/2025: “America does not need more visas for people from India… Enough already. We’re full.” Nguồn: Hindustan Times
【4】 Charlie Kirk về súng và Tu chính án Thứ Hai: “I think it’s worth it… some gun deaths every single year…” Nguồn: The Guardian
【5】 Charlie Kirk về tự do ngôn luận: “There’s ugly speech. There’s gross speech. There’s evil speech. And all of it’s protected by the First Amendment.” Nguồn: Independent.com
【6】Tin cập nhật ngày 22/9: Trong thông cáo gởi CNN, phát ngôn viên Walt Disney Company – chủ sở hữu ABC – cho biết: “Thứ Tư tuần trước, chúng tôi đã quyết định tạm ngưng sản xuất chương trình để tránh làm căng thẳng thêm vào một thời điểm đầy cảm xúc của đất nước. Một số nhận xét của Jimmy khi đó bị xem là thiếu nhạy cảm. Sau những ngày trò chuyện và cân nhắc, chúng tôi đồng ý đưa chương trình trở lại vào Thứ Ba.”
Ở đời dường như chúng ta hay nghe nói người đi buôn chiến tranh, tức là những người trục lợi chiến tranh như buôn bán vũ khí, xâm chiếm đất đai, lãnh thổ của nước khác, thỏa mãn tham vọng bá quyền cá nhân, v.v… Nhưng lại không mấy khi chúng ta nghe nói có người đi buôn hòa bình. Vậy mà ở thời đại này lại có người đi buôn hòa bình. Thế mới lạ chứ! Các bạn đừng tưởng tôi nói chuyện vui đùa cuối năm. Không đâu! Đó là chuyện thật, người thật đấy. Nếu các bạn không tin thì hãy nghe tôi kể hết câu chuyện dưới đây rồi phán xét cũng không muộn. Vậy thì trước hết hãy nói cho rõ ý nghĩa của việc đi buôn hòa bình là thế nào để các bạn khỏi phải thắc mắc rồi sau đó sẽ kể chi tiết câu chuyện. Đi buôn thì ai cũng biết rồi. Đó là đem bán món hàng này để mua món hàng khác, hoặc đi mua món hàng này để bán lại cho ai đó hầu kiếm lời. Như vậy, đi buôn thì phải có lời...
Hồi đầu năm nay, một người bạn quen gọi đến, chỉ sau một tháng quốc gia chuyển giao quyền lực. Giọng chị mệt mỏi, pha chút bất cần, “Giờ sao? Đi đâu bây giờ nữa?” Chị không hỏi về kế hoạch chuyến đi du lịch, cũng không phải địa chỉ một quán ăn ngon nào đó. Câu hỏi của chị đúng ra là, “Giờ đi tỵ nạn ở đâu nữa?” “Nữa!” Cái chữ “nữa” kéo dài, rồi buông thỏng. Chữ “nữa” của chị dài như nửa thế kỷ từ ngày làm người tỵ nạn. Vài tháng trước, cuộc điện thoại gọi đến người bạn từng bị giam giữ trong nhà tù California vì một sai phạm thời trẻ, chỉ để biết chắc họ bình an. “Mỗi sáng tôi chạy bộ cũng mang theo giấy quốc tịch, giấy chứng minh tôi sinh ở Mỹ,” câu trả lời trấn an người thăm hỏi.
Chỉ trong vài ngày cuối tuần qua, bạo lực như nổi cơn lốc. Sinh viên bị bắn trong lớp ở Đại học Brown. Người Do Thái gục ngã trên bãi biển Bondi, Úc châu, ngay ngày đầu lễ Hanukkah. Một đạo diễn tài danh cùng vợ bị sát hại — nghi do chính con trai. Quá nhiều thảm kịch trong một thời khắc ngắn, quá nhiều bóng tối dồn dập khiến người ta lạc mất hướng nhìn. Nhưng giữa lúc chưa thể giải được gốc rễ, ta vẫn còn một điều có thể làm: học cho được cách ứng xử và phản ứng, sao cho không tiếp tay cho lửa hận thù. Giữ đầu óc tỉnh táo giữa khủng hoảng giúp ta nhìn vào ngọn cháy thật, thay vì mải dập tàn lửa do người khác thổi lên.
Trong những thời khắc nguy kịch nhất, thảm họa nhất, tổng thống Hoa Kỳ là người duy nhất có tiếng nói quyền lực với toàn dân để đưa họ vượt qua nghịch cảnh. Tổng thống sẽ trấn an dân bằng luật pháp, bằng ý chí kiên cường, bằng bản lĩnh lãnh đạo, bao dung nhưng dứt khoát. Thậm chí, có khi phải bằng mệnh lệnh sắc bén để khống chế những tư tưởng bốc đồng sẽ gây hỗn loạn. Mấy trăm năm lập quốc của Mỹ đã chứng minh rất nhiều lần như thế.
(Sydney – 14 tháng 12, 2025) - Hàng trăm người có mặt tại bãi biển Bondi, Sydney, để dự lễ Hanukkah đã chứng kiến một trong những vụ khủng bố đẫm máu nhất kể từ sau thảm sát Port Arthur năm 1996. Vào lúc 6 giờ 45 chiều Chủ Nhật, hai tay súng mặc đồ đen xuất hiện trên cây cầu bộ hành nối Campbell Parade với Bondi Pavilion, bắt đầu nổ súng xuống đám đông đang dự lễ. Hai kẻ này dùng súng trường, bắn liên tục trong khoảng 10 phút, khiến hàng trăm người hoảng loạn bỏ chạy, nhiều người ngã gục ngay trên bãi cát và công viên ven biển. Ít nhất 12 người thiệt mạng, trong đó có 9 nạn nhân thường dân, 1 cảnh sát và 2 tay súng (một bị bắn chết tại chỗ, một bị bắt nhưng sau đó tử vong do vết thương). Ngoài ra, có ít nhất 38 người bị thương, trong đó có 2 cảnh sát và nhiều nạn nhân ở tình trạng nguy kịch.
Năm 2024, con người trung bình dành hai giờ rưỡi mỗi ngày trên mạng xã hội. Nhân lên, đó là hơn một tháng mỗi năm nhìn vào màn hình, lướt ‘feed’ (dòng tin), đợi ‘notification’ (báo tin), đếm ‘like’ (lược thích). Bạn dành nhiều thới giờ cho Facebook, Instagram, TikTok. Và câu hỏi không phải "có nhiều không?", mà là "chúng ta nhận được gì?" Câu trả lời, theo một nhóm triết gia, nhà tâm lý học, nhà xã hội học đương đại, không phải kết nối, không phải hạnh phúc, không phải sự thật. Mà là cô đơn có tổ chức, lo âu có hệ thống, và sự thật bị thao túng. Mạng xã hội—đặc biệt Facebook, nền tảng với ba tỷ người dùng, lớn hơn bất kỳ quốc gia nào trên hành tinh—không phải công cụ trung lập. Nó là kiến trúc quyền lực đang định hình lại não bộ, xã hội, và chính trị theo cách mà chúng ta chưa kịp nhận ra. Và đây là điều đáng sợ nhất: chúng ta không bị ép. Chúng ta tự nguyện. Chúng ta mở Facebook vì muốn "kết nối." Nhưng sau ba mươi phút lướt, chúng ta cảm thấy trống rỗng hơn. Chúng ta vào để "cập nhật
Trong sân khấu chính trị đồ sộ từ cổ chí kim của nước Mỹ, hiếm có nhân vật nào diễn xuất giỏi như Donald J. Trump. Những cuộc vận động tranh cử từ hơn mười năm trước của Trump vốn đã tràn ngập những lời hứa, giáo huấn, sự tức giận vì “nước Mỹ quá tệ hại”, những lời phỉ báng đối thủ. Tất cả hòa hợp thành những bản giao hưởng ký tên DJT. Mỗi lần Trump bước lên sân khấu, điệu nhảy YCMA vô tư, không theo chuẩn mực, thay cho tiếng kèn hiệu triệu “hoàng đế giá lâm.”
Năm 2025 được xem là giai đoạn khó khăn cho ngành khoa học khi ngân sách nghiên cứu bị thu hẹp và nhiều nhóm chuyên môn phải giải thể. Tuy vậy, những thành tựu y học nổi bật lại chứng minh rằng sức sáng tạo của con người chưa bao giờ dừng lại. Hàng loạt phát hiện mới đã mở rộng hiểu biết của chúng ta về sức khỏe, đồng thời thay đổi cách chăm sóc bệnh nhân hiện nay. Dưới đây là chín trong số những khám phá ấn tượng nhất trong năm 2025.
Năm 2025 khởi đầu bằng nỗi lo dấy lên từ các sàn tài chính quốc tế. Tháng Tư, Tổng thống Donald Trump khơi lại cuộc chiến thương mại, khiến nhiều người e sợ suy thái toàn cầu. Thế nhưng, sau mười hai tháng, kinh tế thế giới vẫn đứng vững: tổng sản lượng tăng khoảng 3%, bằng năm trước; thất nghiệp thấp và chứng khoán nhiều nơi tiếp tục lên giá. Chỉ riêng lạm phát vẫn còn là bóng mây bao phủ, vì phần lớn các nước trong khối công nghiệp OECD chưa đưa được vật giá về mức ổn định như mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của Artificial Intelligence/ AI và robot đặt ra nhiều thách thức về đạo đức xã hội và cá nhân, đặc biệt là trong việc thu thập dữ liệu cá nhân làm ảnh hưởng đến các quyết định quan trọng như tuyển dụng, trị liệu và xét xử. Mặc dù AI có thể mô phỏng cảm xúc, nhưng không có ý thức thực sự, dẫn đến nguy cơ làm cho con người phụ thuộc vào AI và robot và suy giảm kỹ năng giao tiếp xã hội...
Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.
Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.
Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”
Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.
Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.
Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.
Chúng tôi sử dụng cookie để cung cấp cho bạn trải nghiệm tốt nhất trên trang web của chúng tôi. Nếu tiếp tục, chúng tôi cho rằng bạn đã chấp thuận cookie cho mục đích này.