Hôm nay,  

Có còn là mộng dưới hoa không?

10/10/202500:00:00(Xem: 1448)
 
Mộng dưới hoa 
  
« Chưa gặp em tôi đã nghĩ rằng, có người con gái đẹp như trăng… khi gặp em rõ thấy một bà chằng! »
 
Chằng tinh, hay chằn tinh là một loài người hay cũng coi là một loài quỷ hung ác. Tùy vào hoàn cảnh, tùy vào người ta gặp, ta đối diện.
 
Nay thế giới có nhiều loại chằn tinh, chằn ở trong mọi lãnh vực, chính trị, văn hoá, kinh tế, giáo dục và cả trong xã hội v.v…
 
Do đấy, ta muốn tìm hiểu nguyên do chằn ở đâu ra. Hẳn là trong văn hóa Nam Bộ Việt Nam - Ấn Độ - Khmer…?
 
Theo tác giả Huỳnh Thanh Bình, chằn là một loại sinh vật truyền kỳ, làm hộ pháp, canh giữ chùa, tháp, chánh điện phật giáo nam truyền và chiếm vị trí quan trọng trong văn hóa và tâm linh của người Khmer nam bộ, phổ biến trong kho tàng truyện kể dân gian và tuồng tích sân khấu của đa phần người Đông Nam Á.
 
Khái niệm về chằn được hiểu là những sinh vật có sức mạnh thể chất, hình tướng hung dữ, sở đắc nhiều tài phép biến hóa khôn lường, phẩm chất thiện ác tùy thuộc vào từng loại khác nhau, cũng có thể biến đổi đến chỗ hoán đổi xấu tốt vô lường… tùy không gian, tùy cảm hứng tự thân, tùy hoàn cảnh và lịch sử văn hóa.
 
Ta gọi chung là chằn tinh, nhưng nguồn gốc thì có ba loại:
1/ A Tu La Asura
2/ La Sát Rashashi
3/ Dạ Xoa Yaksha và có Dạ Xoa nữ.
 
Trong văn hóa Bà La Môn, cả ba loại này đều có phẩm chất khác (nghĩa là có xấu, có tốt) khi chúng được phật giáo hóa.
 
Atula – Asura
Atula được biết nhiều, thấy nhiều trong các bản khắc miêu tả cảnh khuấy sữa, gốc từ thần thoại Ấn Độ và ở quốc gia còn chịu ảnh hưởng Ấn Độ như ở di tích Angkor, Angkor Wat, Angkor Thom bên cạnh thần thoại Khmer.
 
Trong tín ngưỡng Indou, Atula có lúc mang ý nghĩa như bậc thần thánh, siêu phàm, có lúc được kể như linh hồn hay bậc thần linh tối cao. Có lúc lại kể như kẻ quỷ quái hay kẻ thù địch Vệ Đà, có một Atula được mang tên là Bình Minh là mang ý tốt lành, và thần Indra (gọi là Đế Thiên) là người chỉ huy các Deva đó. Chỉ huy các Atula đó.
 
Nói chung khởi thủy các Atula đều giỏi giang và có phẩm chất đạo đức tốt, dần dần va chạm nhau, trở nên ngạo mạn và tự phụ, rồi thách thức cả chư thiên… những mâu thuẫn này cho ra hiện tượng sấm sét. Có hai Atula là Ramasua và Mêkhala giành nhau một viên ngọc quý do một bát sữa cô đọng lại mà thành. Cứ mỗi lần trời chuyển mưa, Mêkhala bay lên không trung tắm liền bị Ramasua tung búa lên đánh, hai lưỡi búa đập vào nhau tóe lửa, phát ra tiếng nổ kinh hồn. Họ bảo rằng hiện tượng sấm sét thường xuyên do hai Atula đánh lộn mà ra.
 
La Sát – Rashashi
Có nhiều từ ngữ và tính cách mô tả La Sát, theo đặc điểm và hành vi, La Sát Araras là kẻ giết người, kẻ hay xúc phạm và làm tổn thương, cũng là kẻ ăn cắp đồ cúng hiến, La Sát này rất tráng kiện và khỏe mạnh trong lúc chạng vạng tối. Chúng là loại tham ăn, háu ăn. Chúng có một số phép thần thông là bay lượn hay biến mất, hay tăng giảm kích cỡ thân hình. Loại La Sát này rất đa dạng. Có La Sát hai chân, có loại La Sát ba chân hay bốn chân. Có lúc La Sát là một con mèo, một con chó, một con trăng hay con ngựa hoặc một con voi.
 
Nói chung, đa phần các La Sát là ác, nhưng cũng có những La Sát hoàn thiện. Tính chất hai mặt này thấy ít nhiều trong kinh văn phật giáo, có nghĩa là có những La Sát quay đầu lương thiện sau khi được nghe phật pháp. Đó là trường hợp La Sát Ravana đã thỉnh phật thuyết pháp, và cuộc thuyết giảng này được ghi chép thành Kinh Lăng Già, kinh Lankavatara. Lấy tên núi Lanka đặt tên cho kinh. Núi này ở biển Nam Hải, cao chót vót nhìn xuống biển cả mênh mông, mô tả này để hành giả hình dung ra đó là một hòn đảo, La Bà Na hung ác đã biết dành sự tôn kính  cho Như Lai sau khi nghe thuyết giảng. Thoạt khởi đầu chỉ là họ tò mò mà tới quan sát chư phật xem phật nói gì.
 
Dạ Xoa – Yaksha
Tiếng Việt gọi là Dạ Xoa, xấu như quỷ Dạ Xoa chẳng hạn, trong các ngôn ngữ, có nhiều tên gọi khác nhau, tiếng Sanskrit gọi là Yaksha, tiếng Pali là Yakkha, tiếng Hoa gọi là Ycha, Khmer gọi là Yăk… về giới tính, có Dạ Xoa nam, Dạ Xoa nữ.
 
Dạ Xoa vốn là tên gọi chỉ một loại nhiên thần có Dạ Xoa xấu, cũng có Dạ Xoa đẹp, rất đẹp. Chứ không phải người ta hay nói xấu như quỷ Dạ Xoa!
 
Thường thần thoại coi Dạ Xoa là kẻ nhân từ, chuyên trong coi các kho tàng châu báu trong hang hốc, các kho tàng tự nhiên ẩn trong đất vùi trong rễ cây.
 
Dạ Xoa này được mô tả nhiều trong các thần thoại Hindou giáo và kinh văn phật giáo.
 
Trong thần thoại Hindou và cả phật giáo, Dạ Xoa có cá tính kép, một mặt là vị tiên cô xinh đẹp vô thưởng vô phạt gắn kết với núi rừng.
 
Nhưng bên cạnh cô tiên xinh đẹp đó, còn có một kiểu Dạ Xoa nham hiểm ở những nơi hoang vu, vắng vẻ, thường rình rập để ăn thịt lữ khách, như phù thủy ăn thịt bà cháu cô bé quàng khăn đỏ vậy. Dạ Xoa này khởi điểm là những bà La Sát bảo vệ rừng và đồi núi hoang vu, sau đó được quan niệm như các vị thần giám sát trần gian và của cải nơi họ tá túc.
 
Dạ Xoa nam và Dạ Xoa nữ, cả hai đều là những người hầu cận canh giữ của cho vị thần tài Ấn Độ rất xa xưa, tên gọi Kubera trong kinh Vệ Đà, Kubera là vị thống soái cai quản quỷ và các thần linh sống trong bóng tối. Tức là một vị Diêm Vương. Sau này, Kubera cũng được hiểu một nghĩa khác là ông thần tài, vì trong đất có nhiều của cải cung điện của Kubera ở trên dẫy Himalaya, trong một khu vườn của ngọn núi Tu Di sơn, ngọn núi cao của trung tâm vũ trụ Me Ru (= núi Tu Di) cha con Kubera làm chúa tể các kho báu, của cải, quý giá và được làm vua xứ Lanka (được gọi là Tích lan, Srilanka) sau Kubera có một em trai, rồi gia đình xích mích xô xát vì các cô La Sát xinh đẹp.
 
Tất cả thần thoại ở các quốc gia Ấn hóa ở Đông Nam Á, tín nhiệm về Yaksha thâm nhập sâu sắc và bắt nguồn từ truyện kể các chằn, La Sát, Dạ Xoa của sử thi Ramayalia. Sử thi này lưu truyền sang Nam Việt Nam, được coi là sáng tác văn học nền tảng Miến Điện, Lào, Khmer, Thái Lan… tất cả không phải là một nền văn học để kể, nghe và đọc; mà còn từ đó tạo ra các sản phẩm sân khấu, các hình thức diễn tuồng dân gian và tạo dựng nên vô vàn các tác phẩm điêu khắc, trang trí, hội họa giá trị, thâm nhập khá đậm đà vào tâm thức cộng đồng miền Nam Việt Nam… Ấn tượng là hình ảnh cô Dạ Xoa có lúc được nhắc tới lui nhiều lần trong dân giả…
 
Yaksha cũng được coi là thuộc hạ, tay chân của ông thần tài. Ở Đông Nam Á Yaksha nhận vai trò canh giữ đền chùa, tháp. Là một hình ảnh rất đẹp về mỹ thuật, kiến trúc và cả lịch sử.
 
Ở một khía cạnh khác, sâu sắc hơn, là tính chất hai mặt khác biệt của chằng tinh, dù là A Tu La, hay La Sát hay Dạ Xoa được lưu giữ trong tín lý phật giáo với những biểu hiện thiện ác khác nhau thì A Tu La hay La Sát cũng được coi là một loại chúng sanh. Một loại chúng sanh mà có lúc gặp duyên biết hồi đầu hướng thiện bơi vào bờ!
 
Nhìn, nghe toàn cảnh thế giới chúng ta hôm nay, thiệt hỗn loạn rối ren như chưa từng bao giờ có.
 
Cầu mong sao các La Sát người và các Dạ Xoa, A Tu La người trần thế này, sẽ có lúc phát khởi có hai mặt hoán đổi và biết làm lành tránh dữ như chằng tinh xa xưa…
Cầu mong lắm thay!
Nam Mô Bái Bạch kinh Lăng Già Lankavatara
 
Paris vào thu 2025
Chúc Thanh

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.