Tuệ Sỹ - Thiên Lý Độc Hành

11/21/202509:42:00(View: 52)

Hình TS
Nơi bàn làm việc của Thầy Tuệ Sỹ tại chùa Già Lam. NT Khánh Minh chụp năm 2009


TRANG THƠ VIỆT BÁO KỶ NIỆM HÚY KỴ THƯỢNG TỌA THÍCH TUỆ SỸ LẦN THỨ HAI 24/11
Nguyễn Thị Khánh Minh biên soạn, tổng hợp từ các web.
 
Thiên Lý Độc Hành, là tựa một tập thơ của Thầy, và cũng là bốn chữ được viết treo trên hương án của Thầy tại chùa Phật Ân, huyện Long Thành, nơi Thầy ở vào những năm tháng cuối đời.
 
Thiên lý độc hành, hình ảnh biểu trưng nhất về Thầy Tuệ Sỹ, muôn dặm cô lữ dằng dặc nỗi ưu tư phận nhà vận nước…Và, khó làm sao để tường tận cái chấp chới của vạt áo tỳ khưu đẫm ánh trăng đêm, thấp thoáng ẩn hiện Người và cõi thơ tịnh tĩnh. Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở/ Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan...
Hỏi, tại sao, vì đâu, lòng muối kiên định... để bất khuất chưa tan?
 
I-TIỂU SỬ

Thượng toạ Thích Tuệ Sỹ (15/2/1943 - 24/11/2023) thường dùng bút danh Tuệ Sỹ, tục danh là Phạm Văn Thương, sinh tại Paksé, Lào, nguyên quán Quảng Bình, Việt Nam. Thầy quy y Phật từ lúc 6,7 tuổi.

-Năm 1964: Tốt nghiệp Viện Cao Đẳng Phật học Sài Gòn
-Năm 1965: Tốt nghiệp Viện Đại học Vạn Hạnh phân khoa Phật Học;
-Từ năm 1970: Là Giáo sư thực thụ Viện Đại học Vạn Hạnh. Chủ bút tạp chí Tư Tưởng của Viện Đại Học này.
-Đầu năm 1978-1981, Thầy bị bắt vào trại tập trung cải-tạo 3 năm.
-Ngày 1/4/1984: Thầy bị bắt cùng với Thích Trí Siêu (Lê Mạnh Thát), đến năm 1988 cả hai bị tuyên án tử hình. Nhờ sự can thiệp quốc tế, tháng 11/1988 bản án đổi thành tù chung thân.
-Ngày 1/9/1998, Thầy được thả tự do từ trại Ba Sao– Nam Hà, miền bắc VN. 
-Năm 1998, Tổ chức Human Rights Watch đã tặng giải thưởng về nhân quyền Hellmann-Hamett Awards cho Thầy và 7 người Việt khác là Hoàng Tiến, nhà văn Lữ Phương, Nguyễn Ngọc Tần, Phạm Thái Thủy, Thích Trí Siêu, 2 người dấu tên.
-Ngày 20/04/2020, Thầy đảm nhiệm Xử lý Thường vụ Viện Tăng Thống GHPGVNTN.
-Năm 2021: Là chủ tịch Hội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng
-Năm 2022: Thầy được cử làm Chánh Thư Ký kiêm Xử Lý Thường vụ Viện Tăng thống GHPGVNTN.
-  4 giờ chiều ngày 24 tháng 11 năm 2023, Thầy viên tịch tại chùa Phật Ân, Tỉnh Đồng Nai sau thời gian trị bệnh, thọ 80 tuổi.
- Ngày 09 tháng 03 năm 2024, tại húy kỵ Hòa thượng Thích Quảng Độ tổ chức tại chùa Từ Hiếu, Hội đồng Giáo Phẩm Trung Ương suy tôn giác linh Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ là Đệ Lục Tăng Thống GHPGVNTN.

Là một học giả uyên bác về Phật giáo Nguyên Thủy và Đại Thừa, Thầy thông thạo chữ Hán, Phạn, Anh, Pháp, và Đức. Di sản Thầy để lại, ngoài tinh thần, chí hướng và phẩm hạnh, còn là một kho kinh sách được dịch thuật, một số lượng lớn sách trước tác, nghiên cứu, dịch thuật Phật Học, Thiền Học, Triết Học Đông Tây, riêng Thơ gồm các tập: Giấc mơ Trường Sơn (1975-1980) -  Ngục trung mị ngữ (1979-1988)- Tĩnh Tọa (1983)- Tĩnh Thất (2001)- Những Điệp Khúc Cho Dương Cầm (2008)- Thiên lý độc hành (2011). Một số truyện ngắn, thơ, đăng trên tạp chí Khởi Hành (1969-1972, và những năm Khởi Hành ở hải ngoại ) - Thời Tập tại Sài Gòn (1973-1975)

II-TRÍCH ĐOẠN CÁC BÀI VIẾT VỀ THẦY TUỆ SỸ.
 
Tỳ Kheo THÍCH NGUYÊN SIÊU: -Tư Tưởng Và Hành Động Của Kẻ Sĩ Trước Thời Đại: … Tư tưởng và hành động này đã được diễn đạt qua lời nói khẳng khái của Thầy trước bạo lực: “Không ai có quyền kết án tôi, thì cũng không ai có quyền ân xá tôi.” Một tinh thần khí khái bất khuất, …  Bằng trí tuệ siêu việt và đức tính đại hùng, đại lực, là cái Dũng của nhà Phật… Bằng chí nguyện của bậc xuất trần, không rời xa đất nước dân tộc, Thầy luôn hòa mình thân cận và khuyến nhủ thế hệ kết thừa, nhằm trao truyền cho các thế hệ sau này kiến văn phụng sự nhân sinh, có sự hiểu biết sâu xa về lịch sử dân tộc, và thấu hiểu giá trị đạo đức, vị tha trong cách hành xử giữa người với người. Hết trích. (https://tuesy.net/tue-sy-tho-va-con-duong-trung-dao/)
 
Học giả ĐÀO DUY ANH: “Thầy là viên ngọc quý của Phật Giáo và Việt Nam… Đọc đi đọc lại, tôi càng cảm thấy rõ rệt thi tài của một nhà thơ hiếm thấy thời nay và đặc biệt là cảm nhận sâu sắc tâm đại từ, đại bi cao thượng, rộng lớn của một Tăng sỹ với phong độ an nhiên tự tại, ung dung bất chấp cảnh lao tù khắc nghiệt… Đạo vị và thiền vị cô đọng trong thơ của Thầy kết tinh lại thành những hòn ngọc báu của thơ ca.”
 
Giáo Sư TRẦN VĂN KHÊ: Tôi có dịp chiêm ngưỡng bút pháp của Thầy trong cách viết chữ thảo, lại được thưởng thức cạnh Thầy một chén trà thơm. Và trong hai lần gặp gỡ, đã nhận thấy nơi Thầy một người nhã nhặn, khiêm tốn, sâu sắc. Sau khi được Thầy tặng cho tập thơ này, tôi lại khám phá ra Thầy là một người yêu âm nhạc, lại biết đàn (piano, violon, guitar), ngang qua những tiếng nhạc cảm nhận được suy tư của Thầy về cuộc đời, về sự hoà hợp giữa thiên nhiên và tình cảm con người và tôi đã đi theo cuộc phiêu du huyền bí của Thầy. Hết trích.
(https://www.thivien.net/Tuệ-Sỹ/Những-điệp-khúc-cho-dương-cầm/)
 
Thi Sĩ BÙI GIÁNG: Tuệ Sỹ một vị sư. Ông viết văn quá nghiêm túc, những sở tri của ông về Phật học quả thật quảng bác vô cùng. Thấy ông vẻ người khắc khổ, không ai ngờ rằng linh hồn kia còn ẩn một nguồn thơ thâm viễn u u...
 
Thi Sĩ PHẠM CÔNG THIỆN: … Vị Thiền sư lỗi lạc nhất, thông minh nhất, uyên bác nhất, trong sạch nhất của Việt Nam hiện nay … Điệu thơ Đường Tống cũng đã được dấu kín lặng lẽ trong thơ Tuệ Sỹ, mặc dù Tuệ Sỹ đã từng thuộc nằm lòng cả thế giới Tống Đường. Nói rằng thơ của Tuệ Sỹ hay hoặc không hay thì lố bịch. Chỉ có thể nói rằng thơ của Tuệ Sỹ đáng được chúng ta đọc đi đọc lại nhiều lần và suy nghĩ lan man hoặc cảm nhận tùy hứng. Ít nhất có một người làm thơ đáng cho ta đọc giữa “sống chết với điêu tàn vờ vĩnh” để cho chúng ta còn có được “một buổi sáng nghe chim trời đổi giọng.” … Tuệ Sỹ chính là tiếng thơ đổi giọng của một loài chim đi từ cõi xa xưa của vô biên tế kiếp trong lòng sâu thẳm của Tính Mệnh Quê Hương. Hết trích. (https://tuesy.net/mot-buoi-sang-doc-tho-tue-sy/)
 
Tỳ Kheo THÍCH MINH HẢI: Như một thiên mệnh, cuộc đời Ngài Tuệ Sỹ thị hiện ở cõi đời để làm công việc phiên dịch kinh điển… (Báo Chánh Pháp số 168)
 
Sư Cô THÍCH NỮ HUỆ TRÂN: …Trải qua khúc quanh cực kỳ nghiệt ngã của lịch sử, thầy Tuệ Sỹ đã đồng nghĩa với Lịch Sử, đồng nghĩa với Quê Hương, đồng nghĩa với Dân Tộc…” (Bước Nhảy Của Chim Hồng, Tuệ Sỹ Đạo Sư – Thơ Và Phương Trời Mộng, Tập III)
 
Cư sĩ TÂM NHIÊN: Đơn sơ mà kỳ vĩ, bi ai mà hùng tráng, im lặng mà sấm sét, tĩnh tọa mà phiêu bồng. Đó là cõi thơ trầm thống, khốc quỷ kinh thần của Tuệ Sỹ, một thi sĩ dị thường, một tâm hồn cô liêu cùng tuyệt. Hồn thơ khốc liệt u ẩn, ngân dài trên giai điệu trầm tư tối thượng: Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn/ Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
Để cho trời thơ phiêu phưỡng, bước đi lồng lộng, độc hành ca giữa đỉnh cao và hố thẳm, trầm hùng vô uý khi biết mình đang giáp mặt với thập tử nhất sinh. Một mình lẫm liệt hiên ngang bất khuất, dấn bước lên đường dưới gầm trời bão loạn cuồng si. 
(https://gdptvietnam.org/tue-sy-bi-trang-mot-hon-tho.gdpt)
 
Nhà báo NGUYÊN GIÁC PHAN TẤN HẢI: …Tôi luôn luôn nhớ rằng Thầy Tuệ Sỹ đã hiển lộ những nét phi thường từ khi còn niên thiếu. Một lần, khi đọc Kinh Pháp Cú, tôi sững sờ khi đọc bài Kệ 382. Bản dịch của Thầy Minh Châu như sau:
382. "Tỷ kheo tuy tuổi nhỏ
Siêng tu giáo pháp Phật,
Soi sáng thế gian này,
Như trăng thoát khỏi mây."
Có phải Đức Phật đã huyền ký như thế về Thầy Tuệ Sỹ? Hay chỉ là trùng hợp? … Đối với những người hữu duyên, Thầy Tuệ Sỹ đã hiện ra như một vầng trăng sáng, lặng lẽ soi đường cho những người đi ban đêm. Vầng trăng sáng cũng là một hạnh sống ẩn dật, bất kể là nơi núi cao hay rừng sâu, đưa ánh sáng cho người cần tìm lối đi. Hết trích. (https://vanviet.info/van/thay-tue-sy-nhu-mot-vang-trang-sng/)
 
Nhà văn VĨNH HẢO: Thơ Tuệ Sỹ mang cái âm hưởng buồn vời vợi, xa xăm, nhưng lại kỳ ảo lắm! Chúng nâng hồn mình lên đến những tầng bậc cao thẳm mù khơi của trí tuệ, nơi đó mình bỗng dưng một mình chơi vơi ở ngoài cõi nhân gian nhớp nháp hệ lụy… Hết trích. (https://phatviet.info/doc-tho-tue-sy/)

 

IIi-GIỚI THIỆU THƠ TRÍCH TỪ MỘT SỐ CÁC TẬP THƠ CỦA THẦY TUỆ SỸ

 

1.GIẤC MƠ TRƯỜNG SƠN: Tập thơ được Thầy sáng tác vào khoảng năm 1975-1980. NXB An Tiêm in lần thứ hai tại Sydney, Úc, cuối thu năm 2003.

Những bài thơ được trích từ: https://hoavouu.com/images/file/hwayOGAx0QgQAOdh/giacmotruongson-in.pdf

 

HƯƠNG NGÀY CŨ

 

Màu nắng xế ôi màu hương tóc cũ

Chiều trơ vơ chiều dạt mấy hồn tôi

Trời viễn mộng đọa đầy đi mấy thuở

Mộng kiêu hùng hay muối mặn giữa trùng khơi.

 

MƯA CAO NGUYÊN

1.

Một con én một đoạn đường lây lất

Một đêm dài nghe thác đổ trên cao

Ta bước vội qua dòng sông biền biệt

Đợi mưa dầm trong cánh bướm xôn xao

2.

Bóng ma gọi tên người mỗi sáng

Từng ngày qua từng tiếng vu vơ

Mưa xanh lên tóc huyền sương nặng

Trong giấc mơ lá dạt xa bờ.

3.

Người đứng mãi giữa lòng sông nhuộm nắng

Kể chuyện gì nơi ngày cũ xa xưa

Con bướm nhỏ đi về trong cánh mỏng

Nhưng về đâu một chiếc lá xa mùa

4.

Năm tháng vẫn như nụ cười trong mộng

Người mãi đi như nước chảy xa nguồn

Bờ bến lạ chút tự tình với bóng

Mây lạc loài ôi tóc cũ ngàn năm.

 

KẾT TỪ

Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn

Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.

 

NHỮNG NĂM ANH ĐI

 

Ngọn gió đưa anh đi mười năm phiêu lãng

Nhìn quê hương qua chứng tích điêu tàn

Triều Đông Hải vẫn thì thầm cát trắng

Truyện tình người và nhịp thở Trường sơn

 

Mười năm nữa anh vẫn lầm lì phố thị

Yêu rừng sâu nên khóe mắt rưng rưng

Tay anh với trời cao chim chiều rủ rỉ

Đời lênh đênh thu cánh nhỏ bên đường

 

Mười năm sau anh băng rừng vượt suối

Tìm quê hương trên vết máu đồng hoang

Chiều khói nhạt như hồn ai còn hận tủi

Từng con sông từng huyết lệ lan tràn.

 

Mười năm đó anh quên mình sậy yếu

Đôi vai gầy từ thuở dựng quê hương

Anh cúi xuống nghe núi rừng hợp tấu

Bản tình ca vô tận của Đông phương

 

Và ngày ấy anh trở về phố cũ

Giữa con đường còn rợp khói tang thương

Trong mắt biếc mang nỗi hờn thiên cổ

Vẫn chân tình như mưa lũ biên cương.

N.Tr. 4 - 1975

 

TIẾNG NHẠC VỌNG

 

Ta nhớ mãi ngày Đông tràn ruợu ngọt

Ngày hội mùa ma quỷ khóc chơi vơi

Trưa phố thị nhạc buồn loang nắng nhạt

Chìm hư vô đáy mắt đọng ngàn khơi

 

Đây khúc nhạc đưa hồn lên máu đỏ

Bước luân hồi chen chúc cọng lau xanh

Xô đẩy mãi sóng vàng không bến đỗ

Trôi lênh đênh ma quỷ rắc tro tàn.

 

Vẫn khúc điệu tự ngàn xưa ám khói

Ép thời gian thành ruợu máu trong xanh

Ruợu không nhạt mà thiên tài thêm cát bụi

Thì ân tình ngây ngất cõi mong manh

 

Ôi tiết nhịp thiên tài hay quỷ mị

Xô hồn ta lảo đảo giữa tường cao

Trưa dài lắm ta luân hồi vô thủy

Đỗi hình hài con mắt vẫn đầy Sao.

Trại giam X.4 Sài gòn 79

 

KHUNG TRỜI CŨ

 

Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ

Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang

Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ

Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn

 

Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở

Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan

Cười với nắng một ngày sao chóng thế

Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng

 

Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ

Bụi đường dài gót mỏi đi quanh

Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rủ

Suối rừng xa ngược nước xuôi ngàn.

 

Bùi Giáng đã nhận định bài thơ này năm1969, lúc ấy bài có tên là Không Đề,:

…Nhưng ai có ngờ đâu nhà sư kín đáo e dè kia, không hề bao giờ có vướng lụy, lại còn mang một nguồn thơ Việt phi phàm? Một bài thơ "Không đề" của ông đủ khiến ta khiếp vía mất ăn mất ngủ: … Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ/ Suối nguồn xa/
Ngược nước/ Xuôi ngàn.
Bài thơ dừng lại. Dư âm bất tuyệt kéo dài trong đêm lữ thứ khép mình trong bốn bức tường với nhạt nhòa ủ rũ ngục tù.

Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết chân trời mới cũ Đường Thi Trung Hoa tới Siêu Thực Tây Phương. Hết trích (https://giacngo.vn/bui-giang-viet-ve-tho-tue-sy-post16789.html)

 

TÔI VẪN ĐỢI

 

Tôi vẫn đợi những đêm xanh khắc khoải
Màu xanh xao trong tiếng khóc ven rừng
Trong bóng tối hận thù tha thiết mãi
Một vì sao bên khóe miệng rưng rung

 

Tôi vẫn đợi những đêm đen lặng gió
Màu đen huyền ánh mắt tự ngàn xưa
Nhìn hun hút cho dài thêm lịch sử
Dài con sông tràn máu lệ quê cha.

 

Tôi vẫn đợi suốt đời quên sóng vỗ
Quên những người xuôi ngược Thái Bình Dương
Người ở lại với bàn tay bạo Chúa
Cọng lau gầy trĩu nặng ánh tà dương.

 

Rồi trước mắt ngục tù thân bé bỏng
Ngón tay nào gõ nhịp xuống tường rêu
Rồi khép lại hàng mi về cõi mộng
Như sương mai, như bóng chớp, mây chiều.

Sài Gòn 1978

 

Nhà văn Nguyễn Mộng Giác đã nhận định về bài thơ Tôi Vẫn Đợi như sau:

…  tiếng gõ nhẹ của ngón tay lên tường rêu lạnh của ngục tối. Nó biểu trưng vì đó là một thứ âm thanh lặng lẽ, hoàn toàn trái ngược với tiếng sóng vỗ cuồng nộ ồn ào bên kia vách ngục. … Đó không phải là loại âm thanh dành cho thính giác, mà là âm thanh dành cho tri giác, tuệ giác. Âm thanh đó, tiếng gõ nhịp đó không phải do sức mạnh của bắp thịt, của bạo động nhằm xô ngã tường rêu phá đổ nhà ngục, nhưng lại có một sức mạnh tinh thần lớn lao để đưa con người vượt lên trên mọi thứ ngục tù: sức mạnh của giác ngộ, của tỉnh thức. Hết trích. (https://nguyenmonggiac.com/doc-lai-tho-tue-sy/)

 

Nhà văn Viên Linh trong bài viết Tuệ Sỹ- Tù Đày và Quê Nhà: “Bài thơ trên quả là Một lần định như sao ngàn đã định. Định từ một cái định của ngàn sao, của không hư. Của 14 năm tù đày. Cho Quê Hương và Đạo Pháp.”

(https://tuesy.net/tue-sy-tu-day-va-que-nha/)

 

 

2.NGỤC TRUNG MỊ NGỮ: Tập thơ bằng chữ Hán, được Thầy sáng tác trong thời gian bị cầm tù (1979-1981& 1984-1988), do ni cô Tuệ Hạnh thu nhặt lại và NXB Quảng Hương Tùng Thư xuất bản ngay sau khi Thầy bị tuyên án tử hình năm 1988. Tập thơ được dịch ra Việt ngữ bởi Thích Nguyên Hùng.

Thơ trích từ: https://thuvienhoasen.org

 

CÚNG DƯỜNG

 

Phụng thử ngục tù phạn
Cúng dường Tối Thắng Tôn
Thế gian trường huyết hận
Bỉnh bát lệ vô ngôn

Dịch:

CÚNG DƯỜNG

Dâng bát cơm tù phạm

Cúng dường Đấng Tối Cao

Nhân gian tràn máu hận

Bưng bát nước mắt trào.

 

TRÁCH LUNG

Trách lung do tự tại
Tản bộ nhược nhàn du
Tiếu thoại độc cảnh hưởng
Không tiêu vĩnh nhật sầu

Dịch:

Lồng Hẹp

Tự do trong lồng hẹp

Rảnh rỗi thả bước chơi

Nói cười riêng tiếng vọng

Tháng ngày tù/sầu dần vơi!

 

BIỆT CẤM PHÒNG:

Ngã cư không xứ nhất trùng thiên
Ngã giới hư vô chân cá thiền
Vô vật vô nhơn vô thậm sự
Tọa quan thiên nữ tán hoa miên

Dịch:

BIỆT CẤM PHÒNG

Ta ở riêng ta một vùng trời

Rỗng rang thiền định thiệt thảnh thơi

Không người, không vật, không nhiều chuyện

Ngồi xem thiên nữ rải hoa chơi.

 

TỰ VẤN

Vấn dư hà cố tọa lao lung?
Dư chỉ khinh yên bán ngục khung
Tâm cảnh tương trì kinh lữ mộng
Cố giao già tỏa diện hư ngung

Dịch:

TỰ HỎI

Hỏi anh sao ở chốn lao lung

Anh chỉ khói mây vương ngục cùng

Tâm cảnh đôi co tan khách mộng

Nên mang cùm xích ngó lao chung.

 

3. TĨNH THẤT: (2000-2001) Gồm 32 bài. Vài bài thơ trích từ https://www.thivien.net

 

Bài số 2.
Đến đi vó ngựa mơ hồ
Dấu rêu còn đọng trên bờ mi xanh

Bài số 3.
Nghìn năm trước lên núi
Nghìn năm sau xuống lầu
Hạt cải tròn con mắt
Dấu chân người ở đâu?

 

Bài số 5.
Lon sữa bò nằm im bên chợ
Con chó lạc
đến vỗ nhịp
trời mưa
Tôi lang thang
đi tìm cọng cỏ
Nó nhìn tôi
vô tư

 

Bài số 9.
Nghe luyến tiếc như sao trời mơ ngủ
Đêm mênh mông để lạc lối phù sinh
Ánh điện đường vẫn nhìn trơ cửa sổ
Ngày mai đi ta vẽ lại bình minh

 

Bài số 12.
Một hai ba
những ngày quên lãng
Tôi vùi đầu trong lớp khói mù
Khói và bụi
chen nhau thành tư tưởng
Nhưng bụi đường lêu lỏng bến thâm u

 

Bài số 15.
Con trâu trắng thẩn thờ góc phố
Nỗi hoài hương nhơi mãi nhúm trăng mòn
Đám sẻ lạnh gật gù trên mái đỏ
Sương chiều rơi có thấy lạnh nhiều hơn?
Một chuỗi rắn rình mò trong hẻm nhỏ
Không bụi đường đâu có chỗ đi hoang?

Bài số 16.
Bứt cọng cỏ
Đo bóng thời gian
Dài mênh mang

 

Bài số 23.
Hoang vu
Cồn cát cháy
Trăng mù

Hoang vu
Cồn cát
Trăng mù

Cỏ cây mộng mị
Cơ đồ nước non

 

Bài số 24.
Người đi đâu bóng hình mòn mỏi
Nẽo tới lui còn dấu nhạt mờ
Đường lịch sử
Bốn nghìn năm dợn sóng
Để người đi không hẹn bến bờ

 

Bài số 28.
Ơ kìa, nắng đỏ hiên chùa
Trăng non rỏ máu qua mùa mãn tang
Áo thầy bạc thếch bụi đường
Khói rêu ố nhạt vách tường dựng kinh

Bài số 29.
Người không vui, ta đi về làm ruộng
Gieo gió xuân chờ đợi mưa hè
Nghe cóc nhái gọi dồn khe suối
Biết khi nào phố chợ chắn bờ đê
Mùng 1 tháng Giêng

 

 

4. NHỮNG ĐIỆP KHÚC CHO DƯƠNG CẦM: (2008) Tập thơ gồm 23 bài. Bản dịch sang tiếng Pháp của Dominique de Miscault. 

Một số bài thơ trích từ: https://www.thivien.net

 

#1

Ta nhận chìm thời gian trong khóe mắt
Rồi thời gian ửng đỏ đêm thiêng
Đêm chợt thành mùa đông huyễn hoặc
Cánh chim bạt ngàn từ quãng Vô biên.

#3

Trên dấu thăng
âm đàn trĩu nặng
Khóe môi in dấu hận nghìn trùng
Âm đàn đó
chìm sâu ảo vọng
Nhịp tim ngừng trống trải thời gian

Thời gian ngưng
mặt trời vết bỏng
vẫn thời gian
sợi khói buông chùng
Anh đi mãi
thềm rêu vơi mỏng
Bởi nắng mòn
cỏ dại ven sông.

#7

Chung trà đã lịm khói
Hàng chữ vẫn nối dài
Thế sự chùm hoa dại
Ủ mờ con mắt cay.

#11

Ve mùa hạ chợt về thành phố
Khóm cây già che nắng hoang lương
Đám bụi trắng cuốn lên đầu ngõ
Trên phím đàn lặng lẽ tàn hương
Tiếng ve dội lăn tăn nốt nhỏ
Khóc mùa hè mà khô cả đại dương.

#12

Đạo sỹ soi hình bên suối
Quên đâu con mắt giữa đêm
Vội bước gập ghềnh khe núi
Vơi mòn triền đá chân chim.

#14

Đêm sụp xuống
Bóng dồn một phương
Lạnh toát âm đàn xao động
Trái tim vỗ nhịp dị thường.

Ngoài biên cương
Cây cao chói đỏ
Chiến binh già cổ mộ
Nắng tắt chiến trường
Giọt máu quạnh hơi sương.

#18

Tiếng xe đùa qua ngõ
Cành nguyệt quế rùng mình
Hương tan trên dấu lặng
Giai điệu tròn lung linh.

#19

Bóng cỏ rơi, giật mình sửng sốt.
Mặt đất rung, Ma Quỷ rộn phương trời.
Chút hơi thở mong manh trên dấu lặng.
Đêm huyền vi, giai điệu không lời.

#20

Theo chân kiến
luồn qua cụm cỏ
Bóng âm u
thế giới chập chùng
Quãng im lặng
Nghe mùi đất thở.

#23

Giăng mộ cổ
mưa chiều hoen ngấn lệ
Bóng điêu tàn
huyền sử đứng trơ vơ
Sương thấm lạnh
làn vai hờn nguyệt quế
Ôm tượng đài
yêu suốt cõi hoang sơ.

 

5.THIÊN LÝ ĐỘC HÀNH: (2011) Thơ, được Thầy sáng tác năm 2011, Nxb Văn Học Press liên kết Culture Art Education Exchange Resource, xuất bản 12/ 2020.

Theo tu sĩ Hạnh Viên: …Thầy để lại lời nhắn: “Tôi đi lang thang theo đám mây trôi, phương trời vô định. Bờ sông, hốc núi, đâu cũng là chỗ vùi thây. Một chút duyên còn ràng buộc thì còn có cơ hội ngộ, đời này hoặc đời sau.Thị ngạn am vô trụ xứ.” Thiên Lý Độc Hành, chuỗi thơ 13 bài, hình thành sau chuyến đi ấy. Nó mở đầu bằng sự trở về, và kết thúc bằng lời gởi gắm một bước chân khác lên đường. Đi cho hết con đường thăm thẳm nhân sinh trường mộng... Hết trích. (https://tuesy.net/noi-got-thien-ly-doc-hanh/)

 

“Bước đi nghe cỏ động

Đi mãi thành tâm không

Hun hút rừng như mộng

Chập chùng mây khói trông”

1.

Ta về một cõi tâm không

Vẫn nghe quá khứ ngập trong nắng tàn

Còn yêu một thuở đi hoang

Thu trong đáy mắt sao ngàn nửa khuya.

2.

Ta đi dẫm nắng bên đèo

Nghe đau hồn cỏ rủ theo bóng chiều

Nguyên sơ là dáng yêu kiều

Bỗng đâu đảo lộn tịch liêu bến bờ

Còn đây góc núi trơ vơ

Nghìn năm ta mãi đứng chờ đỉnh cao

3.

Bên đèo khuất miễu cô hồn

Lưng trời ảo ảnh chập chờn hoa đăng

Cây già bóng tối bò lan

Ta ôm cỏ dại mơ màng chiêm bao

4.

Đã mấy nghìn năm đợi mỏi mòn

Bóng người cô độc dẫm hoàng hôn

Bởi ta hồn đá phơi màu nắng

Ôm trọn bờ lau kín nỗi buồn

5.

Từ thuở hồng hoang ta ở đâu

Quanh ta cây lá đã thay màu

Chợt nghe xao xuyến từng hơi thở

Thấp thoáng hồn ai trong khóm lau

6.

Trên đỉnh đèo cao bát ngát trông

Rừng, mây, xanh, ngất tạnh, vô cùng,

Từ ta trải áo đường mưa bụi

Tưởng thấy tiền thân trên bến không

7.

Khi về ngả nón chào nhau

Bên đèo còn hẹn rừng lau đợi chờ

Trầm luân từ buổi ban sơ

Thân sau ta vẫn bơ vơ bụi đường

8.

Bóng tối sập mưa rừng tuôn thác đổ

Đường chênh vênh vách đá dọa nghiêng nghiêng trời

Ta lầm lũi bóng ma tròn thế kỷ

Rủ nhau đi cũng tận cõi luân hồi

Khắp phố thị ngày xưa ta ruổi ngựa

Ngang qua đây ma quỷ khác thành bầy

Lên hay xuống mắt mù theo nước lũ

Dẫm bàn chân lăn cát sỏi cùng trôi

Rồi ngã xuống nghe suối tràn ngập máu

Thân là thân cỏ lá gập ghềnh xuôi

Chờ mưa tạnh ta trải trăng làm chiếu

Nghìn năm sau hoa trắng trổ trên đồi

9.

Gởi lại tình yêu ngọn cỏ rừng

Ta về phố thị bởi tình chung

Trao đời hương nhụy phơi hồn đá

Thăm thẳm mù khơi sương mấy từng

10.

Một thời thân đá cuội

Nắng chảy dọc theo suối

Cọng lau già trầm ngâm

Hỏi người bao nhiêu tuổi

11.

Bước đi nghe cỏ động

Đi mãi thành tâm không

Hun hút rừng như mộng

Chập chùng mây khói trông

12.

Thân tiếp theo thân ngày tiếp ngày

Mù trong dư ảnh lá rừng bay

Dõi theo lối cũ bên triền đá

Sao vẫn còn in dấu lạc loài

13.

Khi về anh nhớ cài quai nón

Mưa lạnh đèo cao không cõi người

 

Hạnh Viên viết: Hai câu kết để ta đóng lại tập thơ mà không đóng lại được những tâm tình khắc khoải, tương điệu trước một vệt nắng chiều hay một ánh sao xa lay lắt cuối trời. Lời nhắn nhủ ân cần không phải là sự êm đềm khép lại cánh cổng vườn nhà sau khi người con đã trở về, nó mở ra lối sau chỉ về một phương trời miên man cô tịch… Hết trích.(https://tuesy.net/noi-got-thien-ly-doc-hanh/)

 

 

6-NHỮNG BÀI THƠ RỜI TRÍCH TỪ TẠP CHÍ KHỞI HÀNH, SỐ THÁNG 5, NĂM 2004.
1.
Xa rồi sóng bạc vỗ ghềnh cao;
Suối nhỏ còn không?
Đêm nhuộm màu.
Một cõi Vĩnh Hằng thu giọt nắng,
Nghe tình du tử chợt xôn xao
2.
Hai mươi năm u hoài
Trong tiếng gà lạc loài
Từng cơn ho rũ rượi
Những đoạn đường lưu đày
Gà gáy, đâu cô thôn?
Lao đao mấy dặm hồn.
U ẩn tường vôi xám,
Dấu tay nắng gậm mòn.
3.
Cơn ho lại kéo dài
Cỗ xe đang rệu rã
Còn một chút gì đây
Sâu con ôm cuống lá
4.
Nửa đêm chợt giấc, rũ cơn ho.
Mây trắng bồng bềnh trôi đáy hồ.
Xa lắm, sông dài từ thuở ấy;
Bóng người lữ khách tựa cây khô.
Tuệ Sỹ
 
DI NGÔN THẦY TUỆ SỸ VIẾT CHO ĐỆ TỬ:

…Nhẫn nhịn đời nhưng không để cho quyền lực đen tối của đời sai sử. Tùy thuận thế gian, nhưng không tự đánh chìm trong vòng xoáy ô trược của thế gian. Các con hãy tự rèn luyện cho mình một tín tâm bất hoại; một đức tính dũng mãnh vô úy; nỗ lực tự huân tập trí tuệ bằng văn, tư, tu để nhìn rõ sự tướng chân ngụy, để thấy và biết rõ mình đang ở đâu, đang đi về đâu; không nhắm mắt phóng càn theo cỗ xe lộng lẫy bên ngoài nhưng rệu rã bên trong, đang lao xuống dốc dài không định hướng… Hết trích.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Tháng tư nắng quái trên tàng lá / Ngày nóng rang, khô khốc tiếng người / Nước mắt ướt đầm trên mắt mẹ / Nghìn đêm ai khóc nỗi đầy vơi? / Tháng tư em dắt con ra biển / Hướng về nam theo sóng nổi trôi / Thôi cũng đành, xuôi triều nước lớn / Làm sao biết được, trôi về đâu?
Dù đứng bên bờ vực của tận diệt, con người vẫn có thể cứu chuộc chính mình bằng ngôn từ và ký ức, đó là tinh thần của giải Nobel Văn Chương năm nay. Trong ánh sáng của niềm tin, Việt Báo đăng lại bài thơ “Hãy để nước Mỹ lại là nước Mỹ” của Langston Hughes – một khúc ca vừa đau đớn vừa thiết tha, viết gần một thế kỷ trước, mà như viết cho thời đại ngày nay. Giấc mơ Hughes gọi tên lại vang lên – giấc mơ về một xứ sở nơi lời hứa của nước Mỹ là hơi thở chung của những người cùng dựng lại niềm tin vào công lý, vào tự do, vào chính con người.
Đọc thơ Nguyễn Xuân Thiệp, nhất là trong tập Tôi Cùng Gió Mùa, nếu cho là chủ quan, tôi vẫn nói rằng, Khí thơ của Nguyễn Xuân Thiệp là khí thu. Trăng ở thơ đó là trăng thu. Gió ở thơ đó mang cái hắt hiu thu. Không biết tại sao, chỉ thấy Khi đọc thơ Nguyễn Xuân Thiệp tôi lại liên tưởng đến cảm xúc của Trương Trào trong U Mộng Ảnh xưa: “Thơ và văn được như cái khí mùa thu thì là hay.”. Nguyễn Xuân Thiệp, xuất hiện lần đầu tiên trên dòng thơ của văn học miền Nam Việt Nam vào năm 1954 trên Thẩm Mỹ Tuần Báo với bài thơ Nhịp Bước Mùa Thu. Bài thơ tính đến lúc này là 71 năm -tiếng thở dài một đời người-, hôm nay tôi đọc lại, cảm xúc vẫn bị lay động bởi hình ảnh u buồn của lịch sử vào thời gian xa xăm đó.
Nguyên Yên, một trong những nhà thơ đương đại nổi tiếng ở hải ngoại. Cô chưa in một tập thơ nào, chỉ xuất hiện trên một số trang web như Việt Báo, Văn Việt, Hợp Lưu, Blog Trần thị Nguyệt Mai, Phố Văn… Ngoài những bài viết về thời sự, bình luận ký tên thật Nina Hòa Bình Lê với cái nhìn sắc bén và nhân ái, người đọc còn được biết đến Thơ của cô, với bút danh Nguyên Yên. Một tiếng thơ gây ngạc nhiên bởi ý tưởng, hình ảnh độc đáo, giản dị, mạnh mẽ, trữ tình. Tôi thực sự bị dòng thơ này lôi cuốn.
Theo đại thi hào R.Tagore "Cũng như nụ cười và nước mắt, thực chất của thơ là phản ánh một cái gì đó hoàn thiện từ bên trong". Theo tác giả cổ đại Ovid (khoảng năm 43 trước Công Nguyên) thì: “Có ít nhiều sự thoải mái trong cơn khóc”. Thi sĩ Colley khẳng định: “Lời nói để khóc và nước mắt để nói” Thi sĩ người Pháp Alfred de Musset có câu thơ: “Cái duy nhất còn lại cho tôi ở trên đời/ Chính là những lúc đã đôi lần nhỏ lệ”. Thi sĩ người Anh Robert Herrick: “Giọt lệ chính là ngôn ngữ cao quý của đôi mắt” .Nhà thơ trẻ Nepal, Santosh Kalwar tâm sự: Tôi đã mỉm cười ngày hôm qua. Tôi đang mỉm cười ngày hôm nay và khi ngày mai đến, tôi sẽ mỉm cười. Vì đơn giản, cuộc sống quá ngắn để ta khóc về mọi thứ – Và ai đó đã cho rằng: Không có gì đẹp hơn một nụ cười đã trải qua những giọt nước mắt.
Trong tập Bốn Mùa Trời và Đất, Márai Sándor cảm giác về mùa hè, …Tôi đứng trên ban công, giữa một vùng xanh, nghe tiếng rì rào thức dậy của cây cỏ. Mùa hè đây rồi, tôi nghĩ; và nó giống như một cảm xúc tràn ngập trong tôi, không khoan nhượng, và đầy những kỷ niệm giản dị… (Giáp Văn Chung dịch) Trong tản văn Hoa Nở Vì Ai, Vũ Hoàng Thư viết, …Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm… Và mùa hè trong truyện của Đặng Thơ Thơ, … Đó là lúc chín nhất của mùa hè. Những trái táo bắt đầu căng mật. Từ trong lá cây thoảng ra những ngọn gió màu xanh thẫm...Ở Cảnh Nhàn của Bạch Vân Cư Sĩ có thú sống, xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao…, có lẽ thời của người, nước còn trong ao còn sạch.
Bạn đang nghe thấy gì trong khí hậu tháng Tư? / Tiếng kêu từ đáy huyệt cuối trời. / Tiếng gió xoáy những cột cờ tử thương tuẫn tiết. / Tiếng phố vỡ triệu mảnh thủy tinh cắt lồng ngực tháng tư rỉ máu mãi chưa khô. / Tiếng sóng hôi dao mùi hải tặc từ oan nghiệt một thời biển huyết. / Tiếng oan hồn dật dờ tìm về cố quận, đáy vực kia bầy cá hoang tảo mộ. / Tiếng hậu chấn từ tâm hồn con dân tháng Tư choàng lên thảng thốt. Dấu chàm xanh lưu xứ để nhận ra nhau. / Tiếng con bướm gáy trong giấc ngủ đôi bờ chiến tuyến. / Tiếng vô vọng của dòng thơ đớn đau, sỉ nhục trải dài trên đất đai tổ quốc. /Tiếng mong mỏi trên những dòng thơ đang vuốt mắt lịch sử, xin hãy chết yên, chết quên, và mở lòng ra ôm những vết thương, trồng lại bóng Quê Nhà…
“Chìm trong biển chết trôi tim người / Còn gì đâu tiếc thương xa xôi …” Chiếc tàu nhỏ rời bến Constantine, Algeria, chở Enrico Macias đến một nơi xa lạ, người lưu vong không bao giờ được phép trở về. Làm sao cánh chim di có thể quên lối cũ? Chiến tranh xua đuổi ông ra khỏi quê nhà. Tàu khởi hành không một người đưa tiễn. “Người tình ơi, ta xa nhau. Mượn đôi mắt em lên đường.” Với cây guitar làm hành trang, ông ghi lại, “J'ai quitté mon pays …”
Hãy tạm để những chuyện buồn nằm im dưới mâm cỗ ngày Tết, để ta chỉ được thấy màu xanh lá bánh chưng, màu đỏ ối ruột dưa hấu, màu vàng đỏ tung xòe trong những bao lì xì nhỏ, màu nắng chín nhấp nháy trên những trái quất… bây nhiêu đó có đủ để bạn đón hơi thở mới của đất trời? Hy vọng vậy để chúng ta được mọc lên như cỏ non trên khung rêu ngày tháng cũ. Bài thơ của Nguyễn Hồng Kiên tôi đọc được từ trang của trường Mầm Non Cự Khối, bài thơ được dạy cho các em lứa 4 tuổi, như một lời chúc tết hồn nhiên.
Cho nhân dân tôi, thức dậy trong bóng tối, những người hát bài ca im lặng, những người than thở trong im lặng, những người nổi giận trong im lặng, những người yêu nhau trong im lặng, lời cầu Nguyện cho nhân dân tôi, những người đi trên đường, chạy tất bật từ sáng đến tối, cho bữa ăn của người nghèo đói, hít thở khói và bụi, những người già trước tuổi, những người không bao giờ biết hát, những người không bao giờ biết cười, những người không bao giờ biết nói dối
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.