TRANG THƠ VIỆT BÁO KỶ NIỆM HÚY KỴ THƯỢNG TỌA THÍCH TUỆ SỸ LẦN THỨ HAI 24/11
Là một học giả uyên bác về Phật giáo Nguyên Thủy và Đại Thừa, Thầy thông thạo chữ Hán, Phạn, Anh, Pháp, và Đức. Di sản Thầy để lại, ngoài tinh thần, chí hướng và phẩm hạnh, còn là một kho kinh sách được dịch thuật, một số lượng lớn sách trước tác, nghiên cứu, dịch thuật Phật Học, Thiền Học, Triết Học Đông Tây, riêng Thơ gồm các tập: Giấc mơ Trường Sơn (1975-1980) - Ngục trung mị ngữ (1979-1988)- Tĩnh Tọa (1983)- Tĩnh Thất (2001)- Những Điệp Khúc Cho Dương Cầm (2008)- Thiên lý độc hành (2011). Một số truyện ngắn, thơ, đăng trên tạp chí Khởi Hành (1969-1972, và những năm Khởi Hành ở hải ngoại ) - Thời Tập tại Sài Gòn (1973-1975)
II-TRÍCH ĐOẠN CÁC BÀI VIẾT VỀ THẦY TUỆ SỸ.
|
IIi-GIỚI THIỆU THƠ TRÍCH TỪ MỘT SỐ CÁC TẬP THƠ CỦA THẦY TUỆ SỸ
1.GIẤC MƠ TRƯỜNG SƠN: Tập thơ được Thầy sáng tác vào khoảng năm 1975-1980. NXB An Tiêm in lần thứ hai tại Sydney, Úc, cuối thu năm 2003. Những bài thơ được trích từ: https://hoavouu.com/images/file/hwayOGAx0QgQAOdh/giacmotruongson-in.pdf
HƯƠNG NGÀY CŨ
Màu nắng xế ôi màu hương tóc cũ Chiều trơ vơ chiều dạt mấy hồn tôi Trời viễn mộng đọa đầy đi mấy thuở Mộng kiêu hùng hay muối mặn giữa trùng khơi.
MƯA CAO NGUYÊN 1. Một con én một đoạn đường lây lất Một đêm dài nghe thác đổ trên cao Ta bước vội qua dòng sông biền biệt Đợi mưa dầm trong cánh bướm xôn xao 2. Bóng ma gọi tên người mỗi sáng Từng ngày qua từng tiếng vu vơ Mưa xanh lên tóc huyền sương nặng Trong giấc mơ lá dạt xa bờ. 3. Người đứng mãi giữa lòng sông nhuộm nắng Kể chuyện gì nơi ngày cũ xa xưa Con bướm nhỏ đi về trong cánh mỏng Nhưng về đâu một chiếc lá xa mùa 4. Năm tháng vẫn như nụ cười trong mộng Người mãi đi như nước chảy xa nguồn Bờ bến lạ chút tự tình với bóng Mây lạc loài ôi tóc cũ ngàn năm.
KẾT TỪ Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn Ai đem quán trọ mà ngăn nẻo về.
NHỮNG NĂM ANH ĐI
Ngọn gió đưa anh đi mười năm phiêu lãng Nhìn quê hương qua chứng tích điêu tàn Triều Đông Hải vẫn thì thầm cát trắng Truyện tình người và nhịp thở Trường sơn
Mười năm nữa anh vẫn lầm lì phố thị Yêu rừng sâu nên khóe mắt rưng rưng Tay anh với trời cao chim chiều rủ rỉ Đời lênh đênh thu cánh nhỏ bên đường
Mười năm sau anh băng rừng vượt suối Tìm quê hương trên vết máu đồng hoang Chiều khói nhạt như hồn ai còn hận tủi Từng con sông từng huyết lệ lan tràn.
Mười năm đó anh quên mình sậy yếu Đôi vai gầy từ thuở dựng quê hương Anh cúi xuống nghe núi rừng hợp tấu Bản tình ca vô tận của Đông phương
Và ngày ấy anh trở về phố cũ Giữa con đường còn rợp khói tang thương Trong mắt biếc mang nỗi hờn thiên cổ Vẫn chân tình như mưa lũ biên cương. N.Tr. 4 - 1975
TIẾNG NHẠC VỌNG
Ta nhớ mãi ngày Đông tràn ruợu ngọt Ngày hội mùa ma quỷ khóc chơi vơi Trưa phố thị nhạc buồn loang nắng nhạt Chìm hư vô đáy mắt đọng ngàn khơi
Đây khúc nhạc đưa hồn lên máu đỏ Bước luân hồi chen chúc cọng lau xanh Xô đẩy mãi sóng vàng không bến đỗ Trôi lênh đênh ma quỷ rắc tro tàn.
Vẫn khúc điệu tự ngàn xưa ám khói Ép thời gian thành ruợu máu trong xanh Ruợu không nhạt mà thiên tài thêm cát bụi Thì ân tình ngây ngất cõi mong manh
Ôi tiết nhịp thiên tài hay quỷ mị Xô hồn ta lảo đảo giữa tường cao Trưa dài lắm ta luân hồi vô thủy Đỗi hình hài con mắt vẫn đầy Sao. Trại giam X.4 Sài gòn 79
KHUNG TRỜI CŨ
Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan Cười với nắng một ngày sao chóng thế Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ Bụi đường dài gót mỏi đi quanh Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rủ Suối rừng xa ngược nước xuôi ngàn.
Bùi Giáng đã nhận định bài thơ này năm1969, lúc ấy bài có tên là Không Đề,: …Nhưng ai có ngờ đâu nhà sư kín đáo e dè kia, không hề bao giờ có vướng lụy, lại còn mang một nguồn thơ Việt phi phàm? Một bài thơ "Không đề" của ông đủ khiến ta khiếp vía mất ăn mất ngủ: … Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ/ Suối nguồn xa/ Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết chân trời mới cũ Đường Thi Trung Hoa tới Siêu Thực Tây Phương. Hết trích (https://giacngo.vn/bui-giang-viet-ve-tho-tue-sy-post16789.html)
TÔI VẪN ĐỢI
Tôi vẫn đợi những đêm xanh khắc khoải
Tôi vẫn đợi những đêm đen lặng gió
Tôi vẫn đợi suốt đời quên sóng vỗ
Rồi trước mắt ngục tù thân bé bỏng Sài Gòn 1978
Nhà văn Nguyễn Mộng Giác đã nhận định về bài thơ Tôi Vẫn Đợi như sau: … tiếng gõ nhẹ của ngón tay lên tường rêu lạnh của ngục tối. Nó biểu trưng vì đó là một thứ âm thanh lặng lẽ, hoàn toàn trái ngược với tiếng sóng vỗ cuồng nộ ồn ào bên kia vách ngục. … Đó không phải là loại âm thanh dành cho thính giác, mà là âm thanh dành cho tri giác, tuệ giác. Âm thanh đó, tiếng gõ nhịp đó không phải do sức mạnh của bắp thịt, của bạo động nhằm xô ngã tường rêu phá đổ nhà ngục, nhưng lại có một sức mạnh tinh thần lớn lao để đưa con người vượt lên trên mọi thứ ngục tù: sức mạnh của giác ngộ, của tỉnh thức. Hết trích. (https://nguyenmonggiac.com/doc-lai-tho-tue-sy/)
Nhà văn Viên Linh trong bài viết Tuệ Sỹ- Tù Đày và Quê Nhà: “Bài thơ trên quả là Một lần định như sao ngàn đã định. Định từ một cái định của ngàn sao, của không hư. Của 14 năm tù đày. Cho Quê Hương và Đạo Pháp.” (https://tuesy.net/tue-sy-tu-day-va-que-nha/)
2.NGỤC TRUNG MỊ NGỮ: Tập thơ bằng chữ Hán, được Thầy sáng tác trong thời gian bị cầm tù (1979-1981& 1984-1988), do ni cô Tuệ Hạnh thu nhặt lại và NXB Quảng Hương Tùng Thư xuất bản ngay sau khi Thầy bị tuyên án tử hình năm 1988. Tập thơ được dịch ra Việt ngữ bởi Thích Nguyên Hùng. Thơ trích từ: https://thuvienhoasen.org
CÚNG DƯỜNG
Phụng thử ngục tù phạn Dịch: CÚNG DƯỜNG Dâng bát cơm tù phạm Cúng dường Đấng Tối Cao Nhân gian tràn máu hận Bưng bát nước mắt trào.
TRÁCH LUNG Trách lung do tự tại Dịch: Lồng Hẹp Tự do trong lồng hẹp Rảnh rỗi thả bước chơi Nói cười riêng tiếng vọng Tháng ngày tù/sầu dần vơi!
BIỆT CẤM PHÒNG: Ngã cư không xứ nhất trùng thiên Dịch: BIỆT CẤM PHÒNG Ta ở riêng ta một vùng trời Rỗng rang thiền định thiệt thảnh thơi Không người, không vật, không nhiều chuyện Ngồi xem thiên nữ rải hoa chơi.
TỰ VẤN Vấn dư hà cố tọa lao lung? Dịch: TỰ HỎI Hỏi anh sao ở chốn lao lung Anh chỉ khói mây vương ngục cùng Tâm cảnh đôi co tan khách mộng Nên mang cùm xích ngó lao chung.
3. TĨNH THẤT: (2000-2001) Gồm 32 bài. Vài bài thơ trích từ https://www.thivien.net
Bài số 2.
Bài số 5.
Bài số 9.
Bài số 12.
Bài số 15. Bài số 16.
Bài số 23.
Bài số 24.
Bài số 28.
4. NHỮNG ĐIỆP KHÚC CHO DƯƠNG CẦM: (2008) Tập thơ gồm 23 bài. Bản dịch sang tiếng Pháp của Dominique de Miscault. Một số bài thơ trích từ: https://www.thivien.net
#1 Ta nhận chìm thời gian trong khóe mắt #3 Trên dấu thăng #7 Chung trà đã lịm khói #11 Ve mùa hạ chợt về thành phố #12 Đạo sỹ soi hình bên suối #14 Đêm sụp xuống #18 Tiếng xe đùa qua ngõ #19 Bóng cỏ rơi, giật mình sửng sốt. #20 Theo chân kiến #23 Giăng mộ cổ
5.THIÊN LÝ ĐỘC HÀNH: (2011) Thơ, được Thầy sáng tác năm 2011, Nxb Văn Học Press liên kết Culture Art Education Exchange Resource, xuất bản 12/ 2020. Theo tu sĩ Hạnh Viên: …Thầy để lại lời nhắn: “Tôi đi lang thang theo đám mây trôi, phương trời vô định. Bờ sông, hốc núi, đâu cũng là chỗ vùi thây. Một chút duyên còn ràng buộc thì còn có cơ hội ngộ, đời này hoặc đời sau.Thị ngạn am vô trụ xứ.” Thiên Lý Độc Hành, chuỗi thơ 13 bài, hình thành sau chuyến đi ấy. Nó mở đầu bằng sự trở về, và kết thúc bằng lời gởi gắm một bước chân khác lên đường. Đi cho hết con đường thăm thẳm nhân sinh trường mộng... Hết trích. (https://tuesy.net/noi-got-thien-ly-doc-hanh/)
“Bước đi nghe cỏ động Đi mãi thành tâm không Hun hút rừng như mộng Chập chùng mây khói trông” 1. Ta về một cõi tâm không Vẫn nghe quá khứ ngập trong nắng tàn Còn yêu một thuở đi hoang Thu trong đáy mắt sao ngàn nửa khuya. 2. Ta đi dẫm nắng bên đèo Nghe đau hồn cỏ rủ theo bóng chiều Nguyên sơ là dáng yêu kiều Bỗng đâu đảo lộn tịch liêu bến bờ Còn đây góc núi trơ vơ Nghìn năm ta mãi đứng chờ đỉnh cao 3. Bên đèo khuất miễu cô hồn Lưng trời ảo ảnh chập chờn hoa đăng Cây già bóng tối bò lan Ta ôm cỏ dại mơ màng chiêm bao 4. Đã mấy nghìn năm đợi mỏi mòn Bóng người cô độc dẫm hoàng hôn Bởi ta hồn đá phơi màu nắng Ôm trọn bờ lau kín nỗi buồn 5. Từ thuở hồng hoang ta ở đâu Quanh ta cây lá đã thay màu Chợt nghe xao xuyến từng hơi thở Thấp thoáng hồn ai trong khóm lau 6. Trên đỉnh đèo cao bát ngát trông Rừng, mây, xanh, ngất tạnh, vô cùng, Từ ta trải áo đường mưa bụi Tưởng thấy tiền thân trên bến không 7. Khi về ngả nón chào nhau Bên đèo còn hẹn rừng lau đợi chờ Trầm luân từ buổi ban sơ Thân sau ta vẫn bơ vơ bụi đường 8. Bóng tối sập mưa rừng tuôn thác đổ Đường chênh vênh vách đá dọa nghiêng nghiêng trời Ta lầm lũi bóng ma tròn thế kỷ Rủ nhau đi cũng tận cõi luân hồi Khắp phố thị ngày xưa ta ruổi ngựa Ngang qua đây ma quỷ khác thành bầy Lên hay xuống mắt mù theo nước lũ Dẫm bàn chân lăn cát sỏi cùng trôi Rồi ngã xuống nghe suối tràn ngập máu Thân là thân cỏ lá gập ghềnh xuôi Chờ mưa tạnh ta trải trăng làm chiếu Nghìn năm sau hoa trắng trổ trên đồi 9. Gởi lại tình yêu ngọn cỏ rừng Ta về phố thị bởi tình chung Trao đời hương nhụy phơi hồn đá Thăm thẳm mù khơi sương mấy từng 10. Một thời thân đá cuội Nắng chảy dọc theo suối Cọng lau già trầm ngâm Hỏi người bao nhiêu tuổi 11. Bước đi nghe cỏ động Đi mãi thành tâm không Hun hút rừng như mộng Chập chùng mây khói trông 12. Thân tiếp theo thân ngày tiếp ngày Mù trong dư ảnh lá rừng bay Dõi theo lối cũ bên triền đá Sao vẫn còn in dấu lạc loài 13. Khi về anh nhớ cài quai nón Mưa lạnh đèo cao không cõi người
Hạnh Viên viết: Hai câu kết để ta đóng lại tập thơ mà không đóng lại được những tâm tình khắc khoải, tương điệu trước một vệt nắng chiều hay một ánh sao xa lay lắt cuối trời. Lời nhắn nhủ ân cần không phải là sự êm đềm khép lại cánh cổng vườn nhà sau khi người con đã trở về, nó mở ra lối sau chỉ về một phương trời miên man cô tịch… Hết trích.(https://tuesy.net/noi-got-thien-ly-doc-hanh/) |
|
|
|
|

