Hôm nay,  

Dương Ngọc Sum - từ cậu bé chăn trâu trở thành giáo sư khả kính

11/28/202500:00:00(View: 586)
 
Duong Ngoc Sum
 
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người.
Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn.

Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông.

* Tuổi Thơ

Tân Uyên ngày xưa thuộc tỉnh Biên Hòa, cách Sài Gòn khoảng 50km về hướng tây bắc. Quê hương của nhà văn Bình Nguyên Lộc đã đề qua nhiều bài viết vùng đất nầy. Và là quê hương của Dương Ngọc Sum.

Ông sinh năm 1935, thân phụ là nhà giáo qua đời năm 1946, vì lý do chính trị… Ông viết: “Sau mấy tháng trốn tránh: ban ngày lính Tây ruồng bố, bắt bớ, ban đêm Việt Minh về phá hoại, đấp mô, đốt chợ, đốt trường học, dùng chày đập đầu các viên chức trong làng. Cha tôi mất đêm 29 sáng 30 tháng Chạp Ất Dậu (1/2/46), chiều 30 Tết âm thầm chôn trong vườn nhà, sáng hôm sau là Mùng Một Tết Bính Tuất (2/2/1946) thọ 40 tuổi, chôn cất nội ngày 30 vì nhà nghèo, do ông Ngoại cho tiền lo đám tang, vì an ninh (bị Việt Minh và lính Tây theo dõi) và vì tập tục không để qua năm”. Trong hoàn cảnh khó khăn, một Mẹ, sáu con nhỏ: Người anh lớn 14 tuổi, bị khuyết tật (cận thị nặng), em út, mới mấy tháng tuổi (sau là  pilot trực thăng Phi Đoàn 2I9).

Vừa mới đi học trường làng, ngày 9/3/45 Nhật đảo chánh Pháp, chiếm đóng trường, phải nghỉ học. Trong trường tiểu học Tân Ba (chương trình Pháp), chỉ có tới Lớp Nhì, học giỏi nhất lớp nhưng vì hoàn cảnh khó khăn nên không thể vào Sài Gòn. Ở nhà giúp Mẹ gặt lúa, đập lúa, tỉa đậu, nhổ đậu, lên giồng khoai, giữ trâu, hốt phân, rửa chuồng. Gặp lúc có nhiều công việc, phải xin cho nghỉ học mấy hôm…

Câu chuyện tuổi thơ đề cập. Lúc đó thi vào Lớp Năm ở Pétrus Ký rất khó với tỷ lệ 1/3 và được trúng tuyển. Lycée Pétrus Trương Vĩnh Ký được thành lập cho năm học đầu tiên 1928-1929. Dạy theo chương trình Pháp, thời Việt Nam Cộng Hòa, trường trung học công lập mới chuyển sang chương trình Việt.
Thấy con hiếu học nên thân mẫu vay mượn, gom tiền dắt xuống Sài Gòn kiếm nhà bà con xin cho ở trọ nhưng không có kết quả!

Trở lại quê nhà cùng các bạn mục đồng dẫn trâu ra các đám ruộng lúa đã gặt xong, bên cạnh hương lộ, cho ăn lúa, rạ còn sót, trước khi bắt đầu việc cày bừa, rồi xúm nhau lên mặt đường chơi đánh đáo với nhau. Bất ngờ có một ông già đi ngang qua, ngừng xe đạp, ra dấu gọi lại bảo. Ông giật mình ngó lên thì ra là thầy dạy. Thầy ôn tồn hỏi: “Sắp đến ngày rồi sao con chưa đi tựu trường?”. Ông trả lời “Thưa Thầy, Mẹ con bảo con nghỉ học vì không có chỗ ở và không tiền trả tiền cơm tháng”. Thầy ngỏ ý tiếc rẻ, bao nhiêu người thi không đậu, còn mình thi đậu rồi lại bỏ không học! Thật đáng tiếc!  Thầy bảo đưa vào nhà gặp Mẹ để tìm cách giúp đỡ. Mẹ ông khóc: “Tôi cũng muốn cho con tôi đi học để sau nầy nối nghiệp Cha nó nhưng tôi không đủ sức, còn có anh nó, nhưng bị khuyết tật và 4 đứa em nhỏ, chỉ có nó là đứa chịu cực chịu khổ ở nhà để giúp tôi thôi!”. Chia tay cảm dộng, Thầy của ông ra về, còn ông trở lại bãi chăn trâu!

Hôm sau, Thầy cho gọi ông lên nhà ở Ấp Chợ để báo tin mừng: Hôm qua, Thầy đã cấp tốc đi Sài Gòn, đến nhà người học trò cũ cùng làng, nay đã thành đạt, đang làm thư ký cho hãng cưa gỗ của người Pháp Brossard Mopin tại Dakao, có vợ và một con nhỏ, đang tìm một garcon bé trai giúp việc sai vặt. Thầy đề nghị với người học trò cho ông vào làm, không cần lương, chỉ cho ở trọ và đươc đi học mỗi ngày một buổi, cơm nước thì không đòi hỏi gì, có gì ăn nấy, nhà chật, có thể ra trại cưa ở chung với thợ cưa, đèn thì nhờ đèn security để học bài, làm bải. Đi học lạ đường sá thì theo bạn Trần Kim Thạch, cùng đỗ một khóa nhưng khác lớp, về sau là Tiến Sĩ Địa Chất ở Anh Quốc. Thầy cho ông một xe đạp cũ của con, 30 đồng thay vỏ ruột xe, và 20 đồng mua sách vở và dặn thỉnh thoảng ghé thăm thầy, cho biết có cần gì thì cho Thầy biết sẽ giúp cho.

Trải qua 4 năm Cao Đẳng Tiểu Học của con nhà nghèo (Enseignement Primaire Supérieure) (1949-1953) 

Trong 4 năm dài, bao nhiêu khó khăn mà một thanh thiếu niên, mồ côi nhà nghèo phải giải quyết để không bỏ cuộc và đạt mục đích. Được thọ giáo với các vị thầy nổi tiếng. Hai năm 2ème và 3ème học cầm chừng, dưỡng sức, năm 4ème quan trọng và ông thi đậu 3 cuộc thi chỉ trong một Khóa (1ère Session): 

Bằng Thành Chung (Diplôme d’Etudes Primaires Supérieures Indochinoises - Cao Đẳng Tiểu Học Đông Dương) ra trường thi đậu với Mention Assez Bien
Brevet D’etudes Du Premier Cycle Du Second Degré (không bắt buộc, do Bộ Giáo Dục Pháp tổ chức, ông tự ý nộp đơn xin thi và thi đậu).

Seconde Moderne, thi đâu với Học Bổng Demi-Boursier (học bổng bán phần)        

Thầy đậu Viết Écrit Diplôme bên Pétrus Ký và bên Marie Curie.

Dưới thời Pháp thuộc hệ thống giáo dục tại Việt Nam giữa thập niên 1940’ được tổ chức theo mô hình Pháp:

Sơ Đẳng Tiểu Học - Certificat d’Études Primaires Franco-Indigènes (CEPFI)
Cao Đẳng Tiểu Học - Văn bằng: Diplôme d’Études Complémentaires (DEC) hay còn gọi: Bằng Thành Chung - Brevet d’Enseignement Primaire Supérieur (BEPS)
Tú tài bán phần (Tú tài I) - Baccalauréat I, còn gọi Premier Cycle
Tú tài toàn phần (Tú tài II) - Baccalauréat II. Điều kiện vào đại học.

* Thầy Giáo & Người Lính

Sau khi tốt nghiệp Tú Tài II (toàn phần) ông thi vào trường Sư Phạm, Khóa I hệ ba năm (1955-1958) lúc đó gọi là Cao Đẳng Sư Phạm. Theo học ngành nầy sinh viên có học bổng, ổn định cuộc sống. Ông ở trọ nhà của vợ chồng ông bà chủ xe đò Sài Gòn - Vũng Tàu và lo cho người em lên Sài Gòn học. Sau khi ra trường, ông được bổ nhiệm về dạy trường trung học Pétrus Ký, Đệ Nhất Cấp. Ông tiếp tục theo học Đại Học Văn Khoa, đậu bằng Cử Nhân Giáo Khoa Văn Chương Việt, dạy các lớp Đệ Nhị Cấp. Giáo sư Sử Địa của Pétrus Ký, ngoài ra, ông còn dạy thêm vài trường với các môn dạy khác nhau.

Duong Ngoc Sum 2
Với người bạn đời từ khi ông học năm Deuxième Année tại Lycée Pétrus Ký năm 1950,  khi ông ở đậu để đi học Trường Pétrus Ký… Năm 1960, cô Hồ Thị Hiệp, tốt nghiệp Sư Phạm, mới ra trường dạy tại Trường Nữ Trung Học Lê Ngọc Hân ở Mỹ Tho rồi Trường Mạc Đĩnh Chi ở Sài Gòn. Sau khi đám cưới đám cưới rồi cùng dạy môn Sử, Địa ở trường Pétrus Ký. ÔB được cấp căn nhà trong cư xá của nhà trường.

Năm 1962, cô có bầu, thì có lệnh Tổng Động Viên,  ông nhập ngũ  Khóa 14, Trường Bộ Binh Thủ Đức. Ra trường, may mắn cho về phục vụ tại Bộ Chỉ Huy Tiếp Vận III đóng tại Thành Oma, sau thuyên chuyển xuống Phòng Tuyển Binh ở Bến Chương Dương. Sau đó được đổi thành Sở Động Viên 3 trực thuộc Nha Động Viên / Bộ Quốc Phòng. Năm 1966 giải ngũ, dạy lại trường xưa.

Sau biến cố Mậu Thân 1968, thay vì đến trình diện tái ngũ tại đơn vị Quản Trị Địa Phương 3, ông đến trình diện ngay tại Nha Động Viên BQP, và được giữ lại làm việc tại đó trong 2 năm, được thăng cấp bậc Đại Úy thì có lệnh biệt phái trở về Bộ Giáo Dục năm 1971… 

Cuộc đời binh nghiệp của ông được may mắn vì phục vụ ở Sài Gòn nên có dịp dạy thêm.

Giữa năm 1971, đang trong tình trạng biệt phái tại Trường Pétrus Ký, Bộ Giáo Dục báo tin nhận “Nhiệm Vụ Mới”.

Trong Khối Nghiên Cứu & Phát Triển Giáo Dục ông được bổ nhiệm phụ trách Văn Phòng của Khối, và cải ngạch Thanh Tra. Công việc nầy quá nặng nề và có sự tranh chấp nên ông muốn trở lại dạy học ở Trường Pétrus Ký cho thoải mái nhưng bị từ chối.

* Dương Tử

Với bút hiệu Dương Tử (người con họ Dương) sáng tác thơ, văn đã ghi lại quãng đời của ông từ tuổi thơ đến tháng ngày ở hải ngoại. Người bạn thân dạy cùng trường là giáo sư Vũ Ký, với sở học và sở thích văn chương Pháp, nếu ông đi vào lãnh vực biên khảo và dịch thuật sẽ có nhiều bài viết, tác phẩm có giá trị. Nhiều tác giả nổi tiếng nơi mái trường nầy như: Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Thanh Liêm, Võ Hoài Nam (Tiểu Tử), Nguyễn Văn Sâm, Nguyễn Xuân Hoàng, Trần Đại Lộc, Nguyễn Khắc Kham, Bùi Tuyết Hồng, Lê Văn Khoa, Lâm Vĩnh Thế, Nguyễn Hữu Ba, Phạm Mạnh Cương, Phạm Thế Ngũ… Và sau này các cựu học sinh đã theo học ngôi trường nầy khi định cư ở hải ngoại.


Sau năm 1975, ông đi tù, được thả năm 1978, gia đình ông bị đày đi vùng Kinh Tế Mới, cho hai con vượt biên. Ông cũng vượt biên nhưng thất bại, trong bài viết Một Chuyến Vượt Biên Kinh Hoàng với thảm cảnh hai đứa con còn nhỏ khi vượt biên, gặp nguy hiểm nhưng rồi được cứu vớt. Bài viết nầy ghi lại của cháu QH sau nầy kể cho ông.

Khi có chương trình H.O vì chỉ 3 năm nên không đủ tiêu chuẩn. Vợ chồng ông có con làm thủ tục bảo lãnh, khi phỏng vấn vì bị đi tù nên phái đoàn của Mỹ cho chuyển sang diện H.O.

Trong website Hội Ái Hữu Petrus Trương Vĩnh Ký Úc Châu có loạt bài Thư Của Thầy Dương Ngọc Sum “Cuộc Đời Của Người Trai Thời Loạn” Gởi Học Trò Petrys Ký, gồm 10 phần ghi lại cuộc đời của ông trong suốt nhiều thập niên qua. Với mái trường nầy, ông đã gắn bó từ thuở đi học và trở lại dạy. Có nhiều môn sinh sau đó cũng là đồng nghiệp với vị thầy nên có nhiều kỷ niệm.

Duong Ngoc Sum 3
Năm 2005, ông vào tuổi thát thập, nhà văn Huy Phương viết bài Dương Ngọc Sum & Cuộc Đổi Đời Trên Đất Mỹ. Trích những phần chính vì đã đề cập ở trên:

“Từ một thanh tra giáo dục, trở thành người quét chùa, bán chợ trời, giữ em, thợ nướng bánh Song Long… để làm lại cuộc đời. Cuộc đời của thầy giáo Sum gắn liền với ngành giáo dục từ khi ông ra trường sư phạm cho tới lúc ông phải đứng ra bàn giao Bộ Quốc Gia Giáo Dục Việt Nam Cộng Hòa lại cho đoàn tiếp thu của Cộng Sản từ Hà Nội…

(Khi tị nạn ở Mỹ)… Thoạt đầu ông cũng hy vọng rằng, với vốn liếng học hành của mình, ông có thể kiếm được một việc làm tương đối trên đất Mỹ. Dương Ngọc Sum thi vào ngành cán sự xã hội, nhưng tiếng Anh với “accent” Pháp đặc của ông Mỹ nghe không nổi, sau đó ông lại hy vọng vào ngành giáo dục, được nhận vào làm “phụ giáo”, nhưng học khu chỉ cắt cho ông bốn giờ mỗi tuần, chia ra tại hai trường, nhưng với công việc như thế không thể nào đủ sống.

Không nản chí và nghĩ rằng phải cắp sách đến trường dạy nghề thì may ra mới kiếm được việc làm dễ dàng, Dương Ngọc Sum và nội tướng của ông cắp sách vào trường dạy nghề ghi danh theo học hai khóa học mà ông nghĩ là thiết thực nhất, chỉ trong vòng 6 tháng, đó là khóa “Nursing Assistant” và “Home Health Assistant”.

Tốt nghiệp, cả hai ông bà xin được việc tại Florida Hospital tại Huntington Beach, tuy ở hai department nhưng cùng một phiên trực trong ngày. Có thể nói nghề “Nursing Assistant” (tạm dịch là y công) là một nghề vất vả, khó nhọc nhất trong các bệnh viện, phải tiếp xúc, lo vệ sinh cho các bệnh nhân, nhất là các bệnh nhân liệt giường. Trong giới y tá tại Hoa Kỳ, người ta thấy phần lớn nhân viên là người Phi Luật Tân. Với số đông và làm việc lâu năm tại bệnh viện này, họ bênh vực nhau và kỳ thị, bất công ra mặt với hai người Việt Nam tại đây, do đó chỉ ít lâu sau, không chịu nổi căng thẳng và cực nhọc, thầy cô giáo Sum phải bỏ việc.

Sau đó, hai vợ chồng ghi danh vào college đi học lại, và thầy giáo Sum vừa đi học vừa làm đủ thứ nghề, tóm lại là ai chỉ việc hay giới thiệu việc gì thì làm việc đó. Có một thời gian có người giới thiệu, thầy Sum đến tư gia săn sóc cho một cụ già tám mươi tuổi đang bị bệnh (ông có licence “Health Care Assistant”). Ít lâu sau, cụ già qua đời, gia chủ quí cách làm ăn chăm chỉ của thầy, sợ thầy thất nghiệp lại nhờ thầy tạm babysit con mình, bồng bế, đút cơm, thay tã. Nhưng cũng chỉ được một thời gian ngắn, hai vợ chồng gia chủ phải đổi đi tiểu bang khác, Dương Ngọc Sum lại thất nghiệp.

Có người giới thiệu, Dương Ngọc Sum nhận đi quét chùa, mỗi giờ được trả $5.00, tám giờ cũng được $40.00. Ông cũng được bạn của con rủ đi bán chợ trời Thứ Bảy, Chủ Nhật tại South Coast cho một bà chủ Mỹ. Gian hàng này chuyên bán phong linh (chimes), sáng dọn hàng ra, chiều thu lại nhưng giờ khác đứng bán hàng. Một ngày nọ, cậu bạn đồng nghiệp, lúc cho hàng lên xe, cột dây không kỹ, phong linh bung ra rớt xuống đường gãy khá nhiều, cậu bị đuổi việc, thầy Sum vì tình đồng đội cũng “quit job” theo!

Lúc đó “Song Long Food To Go” trên đường Bolsa cần người làm bánh, ông Võ Khôi trước kia là phụ huynh học sinh của Petrus Ký, thấy thầy thất nghiệp giới thiệu cho thầy. Không ngờ ông thầy Sum này lại cần cù, chăm chỉ khéo tay, chỉ sau một năm nhào bột, đánh trứng, thầy được nâng đỡ lên làm thợ làm bánh, chỉ ra phân lượng, điều kiển máy nướng điện và cắt, bánh, phết kem để cho các cô thợ khác nặn hoa và chữ.

Làm bánh được hai năm, Dương Ngọc Sum lại bỏ nghề, trở lại Santa Ana College đi học mấy “tín chỉ” về chemistry. Sau khi hoàn tất chứng chỉ này này, ông lại vào xin việc tại một hãng mỹ phẩm, chuyên sản xuất mỹ phẩm cho các bà như kem rửa mặt, thoa mặt ban đêm, ban ngày và các loại kem đánh răng. Ít lâu sau không cạnh tranh nổi với hàng Âu Châu, hãng này lại quay sang sản xuất dược thảo (herbal medecine).

Qua bao nhiêu nghề nghiệp lang bạt, phải hơn bốn năm, Dương Ngọc Sum mới có được một việc làm ổn định, với đồng lương khá cao tại hãng mỹ phẩm này và hiện nay ông phụ trách phòng “Research & Development và Cosmetic Lab” của hãng. Nhờ vậy, ông mới đủ điều kiện bảo lãnh được cho gia đình con gái ông sang đoàn tụ cách đây sáu tháng. Năm nay, Dương Ngọc Sum đã vào tuổi 70, nhưng ông còn đủ sức khỏe để theo đuổi công việc này vài ba năm nữa.

Khi phải làm lại cuộc đời trên đất Mỹ với cái tuổi 55, nhiều khi Dương Ngọc Sum cũng thấy nản lòng. Ông đã phải làm những nghề nghiệp quá ư vất vả, xa lạ với cuộc đời của một thầy giáo như ông, nhưng bỏ nghề này theo nghề khác, chưa lúc nào Dương Ngọc Sum chịu thúc thủ nằm nhà, ăn tiền thất nghiệp hay xin trợ cấp. Ông không như những người khác vẫn ôm riết cái dĩ vãng của mình, ông lăn lưng vào cuộc sống không nề hà lấm láp. Phải nói, Dương Ngọc Sum là một người can đảm, ít có ai có nhiều nghề như ông trên đất Hoa Kỳ. Bạn bè, thân thích ai cũng biết ông là một người lạc quan, vui tính, thích quảng giao và tham gia những sinh hoạt hữu ích cho cộng đồng.

Ông dành thời gian để viết hầu hết cho các đặc san Petrus Ký trong nước Mỹ và ngoại quốc, có bài đăng trên các nhật báo Người Việt, Việt Báo, Viễn Đông… và làm thơ với bút hiệu Dương Tử, có nghĩa là “con nhà họ Dương”.

Ngoài công việc hằng ngày, GS Dương Ngọc Sum tham gia các sinh hoạt giáo dục, xã hội như cố vấn cho Hội Ái Hữu Pétrus Ký Nam California, Hội Trưởng Gia Đình Sư Phạm Hải Ngoại, thành viên Giải Khuyến Học và các trung tâm Việt Ngữ Nam Cali.

Từ một Giáo Sư Trung Học Đệ Nhị Cấp, Thanh Tra Giáo Dục, phụ tá cho Phụ Tá Đặc Biệt Tổng Trưởng, ông Dương Ngọc Sum khi đến Hoa Kỳ đã trở thành một người bán chợ trời, y công, chăm sóc người già, giữ trẻ, quét chùa… và cắp sách đi học rồi trở thành một chuyên viên mỹ phẩm cho một hãng sản xuất lớn tại Orange County. Với một tâm hồn lạc quan hiếm có, cùng với một sự phấn đấu phi thường, nhà giáo Dương Ngọc Sum là một trong những thành viên H.O. tiêu biểu cho sự nỗ lực trong cuộc đổi đời, để cuối cùng cũng được ổn định trên đất Hoa Kỳ.

Duong Ngoc Sum 5
(Huy Phương - Người Việt - Ngày 6 tháng 1 năm 2005)

Trong thời gian làm báo, trong những lần sinh hoạt liên quan đến ngành giáo dục, tôi thấy sự hiện diện của ông. Thời gian sau nầy ông và tôi tham gia trong nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật & Tiếng Thời Gian mới có cơ hội gặp gỡ nhau. Bản tính ông hiền hòa, cởi mở và lạc quan. Dương Tử làm thơ hơi tếu như Tôi Học Làm Bánh Bao, Tôi Làm Cosmetic… nghĩa là công việc nào cũng làm thơ. Trong Hai Lá Thư Từ Mỹ Quốc, đăng nhiều bài thơ thể thất ngôn bát cú, điển hình như:
Bài thơ khi làm Teacher Aid:
 
“Giáo chức từ đây dứt cháo rồi
Yêu nghề mến trẻ cũng đành thôi!
Tựu trung là cũng do tiền bạc
Kinh tế nhìn chung chữa phục hồi
Bốn tiếng một tuần sao đủ sống?
Đường đi nước bước lại xa xôi!
Ba mươi năm lẻ trong ngành giáo
Nhắc đến trong dạ luống bồi hồi!”
Thời gian sau nầy, sức khỏe rất yếu, không tự lái xe được vì vậy trong những buổi hội ngộ, tiệc tùng, nếu không có ai đưa đón, thiếu bóng dáng ông!
Little Saigon, November 2025

Vương Trùng Dương
  

Reader's Comment
11/30/202517:15:54
Guest
Đáng kính phục. Cảm ơn bác Vương Trùng Dương đã tốn công chia sẻ một bài viết rất hay về thầy Dương Ngọc Sum. T. cũng từng học Pétrus Ký xưa kia và sau rất nhiều bể dâu tôi nay cũng làm Gs Đh ở Mỹ nhưng nếu so với thầy Dương Ngọc Sum thì phải công nhận hoàn cảnh của thầy thật tội nghiệp và thật khó khăn. Vậy mà thầy vẫn quyết chí vượt qua bằng mọi cách. Đáng kính phục! Con xin cúi đầu chào kính phục thầy. Mong VB cho tin tức để tôi có thể l/l kính thăm thầy. Thành thật cảm ơn.
Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .
Nhạc sĩ Hùng Lân mất vào ngày 17/9/1986 tại Sài Gòn. Hôm nay, ngày 17/9/2025 tôi nhớ tới ông. Tính ra đã 39 năm. Ba năm trước, tại nhà thờ Phanxicô Dakao đã có một lễ giỗ 36 năm ngày mất của ông. Linh mục Đỗ Xuân Quế, chủ tế lễ giỗ, đã nói trong thánh lễ: “‘Hôm nay là lễ giỗ thứ 36 của ông Phêrô Hoàng Văn Hương tức là nhạc sĩ Hùng Lân. Ông là người đáng cho chúng ta trân trọng và quý nhớ. Vậy chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện cho ông được vào nước Thiên Chúa. Nếu ông đã được vào rồi thì xin nhớ đến chúng ta là những người đang tiếp tục cuộc hành trình nơi dương thế đang hướng về Nước Trời.” Sau thánh lễ là chương trình tưởng niệm trong đó có tiết mục trình diễn nhạc của Hùng Lân, cả nhạc đạo lẫn nhạc đời. Người dẫn chương trình cho tiết mục này là nhạc sĩ Cao Huy Hoàng, đến từ Phan Thiết. Ông chia sẻ: “Nếu ngày ấy, thầy Hùng Lân qua đời, Chúa hỏi ‘nén bạc của ta đâu?’, thầy có lẽ không trả lời hoặc chưa trả lời kịp thì hôm nay, chúng ta có thể nhìn lại và thấy được rằng nén bạc của thầ
« Chưa gặp em tôi đã nghĩ rằng, có người con gái đẹp như trăng… khi gặp em rõ thấy một bà chằng! » … Chằng tinh, hay chằn tinh là một loài người hay cũng coi là một loài quỷ hung ác. Tùy vào hoàn cảnh, tùy vào người ta gặp, ta đối diện. Nay thế giới có nhiều loại chằn tinh, chằn ở trong mọi lãnh vực, chính trị, văn hoá, kinh tế, giáo dục và cả trong xã hội v.v…Do đấy, ta muốn tìm hiểu nguyên do chằn ở đâu ra. Hẳn là trong văn hóa Nam Bộ Việt Nam - Ấn Độ - Khmer…? Theo tác giả Huỳnh Thanh Bình, chằn là một loại sinh vật truyền kỳ, làm hộ pháp, canh giữ chùa, tháp, chánh điện phật giáo nam truyền và chiếm vị trí quan trọng trong văn hóa và tâm linh của người Khmer nam bộ, phổ biến trong kho tàng truyện kể dân gian và tuồng tích sân khấu của đa phần người Đông Nam Á.
Cả ông ta và tôi cùng cười xòa. Ui, mình đúng là đãng trí thứ thiệt. Phần Lan đã gia nhập Eurozone từ 1999 và dùng Euro ngay từ buổi đầu như những quốc gia thành viên khác. Ngày trước, nhắc đến những thủ đô bắc Âu, người ta thường nghĩ đến Oslo giàu có của Na Uy, Copenhagen trẻ trung của Đan Mạch. Giờ đây, Helsinki dần dà từng bước góp mặt vào danh sách những thủ đô được du khách ưa chuộng. Sức thu hút của thành phố ngày càng tăng. Từ 15 năm nay, Helsinki là một trong những thành phố tân tiến nhất Âu châu.
Bà xỏ chân vào đôi dép, lê lẹp xẹp vào buồng. Bà lấy ra một bịch nhựa trong đó đựng trăm thứ lặt vặt không ra hình thù gì. Bà nhìn trước, ngó sau như người ăn trộm. Chị mua ve chai đứng ở ngoài cửa bếp. Như một việc đã quá quen thuộc, chị đón lấy cái túi, móc vào cái cân xách. Trước kia chị phân loại giấy ra giấy, nhựa ra nhựa, nay thì hai bên đã thỏa thuận với nhau là có một cái giá trung bình cho toàn thể. Bà thì nhìn đăm đăm vào mớ hàng lặt vặt ấy như nhìn một thứ gì quý giá lắm. Mà không quý sao được, vì đó là kết quả của nhiều tuần bà lượm lặt và cất giữ.
Cho tới bây giờ, thỉnh thoảng trong giấc ngủ tôi vẫn nằm mơ tới chuyện thi Tú tài và giật mình tỉnh dậy, mừng húm mà mồ hôi vẫn đổ ra. Trong lần thi Tú Tài I, tôi đã thức đêm thức hôm học đến bị yếu phổi. Chữ “Tú Tài” nặng nhọc với tôi như vậy tuy nghĩa của nó là “đẹp đẽ, có khả năng, tài giỏi”.Ông Tú Xương có lẽ cay đắng với chữ “Tú Tài” không kém gì tôi. Ông vác lều chõng đi thi tất cả 8 lần, từ khoa Bính Tuất (1886) tới khoa Bính Ngọ (1906). Ba lần đầu ông đạp vỏ chuối, tới lần thứ tư, năm Giáp Ngọ (1894), ông mới vớ được cái Tú Tài nhưng là Tú Tài đậu vớt, chữ ngày đó gọi là “Tú Tài Thiên Thủ”. Ông chết với cái danh Tú Tài, chẳng bao giờ kiếm được cái “Cử Nhân” mặc dù vẫn cặm cụi đi thi.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.