Hôm nay,  

Trở Lại Bidong – Galang: Mẩu Chuyện Dọc Đường...

10/15/200500:00:00(View: 7998)
* Những người đàn bà còn ở lại
Sau hơn nửa ngày đường qua những rừng cọ bạt ngàn và phố thị sầm uất của Mã Lai, vào ngày thứ tư của chuyến đi (thứ Năm 1.9) chúng tôi tiếp tục viếng thăm các khu nghĩa trang VBP ở tiểu bang Terengganu.
Tôi đã đến những nơi này trong chuyến đi trước nên đã làm "tài khôn" hướng dẫn các anh chị em trong đoàn vào các phần mộ thuyền nhân VN ở Rantau Abang, Dangun, Panjun...
Làm sao kể hết ra đây những đôi mắt ràn rụa xót thương của những người trong đoàn cho những thân phận hẩm hiu quạnh quẽ trong các khu mộ địa ở đây. Những đồng bào nằm đó - từ Cà Mau, Phú Quốc, Trà Vinh, Cần Thơ, Sài Gòn, Phan Thiết, Vũng Tàu, Nha Trang... - khi ra đi có hẹn đâu một nơi gửi thây cùng chỗ nơi này. Một ít bia mộ nguyên lành còn được nhận ra tên tuổi người xấu số nhưng hầu hết là những nấm mồ tập thể chỉ vỏn vẹn vài dòng lưu dấu: 53 VBP - ghe MH-3012 - chôn cất ngày 30.04.79; 137 VBP - không có tên ghe - chôn cất ngày 23.11.78; 15 VBP - xác vớt ngoài biển - chôn cất ngày 15.01.90; 40+ VBP - chết đuối xác trôi vào Dangun - chôn cất ngày 30.04.79 v.v..
Còn hàng chục, hàng trăm ngôi mộ tập thể hoặc cá nhân như thế nữa khắp các bờ biển của Mã Lai, không kể ở ngoài các hải đảo và các nước trong vùng. Và không kể cả hàng trăm, hàng ngàn chiếc ghe với bao nhiêu sinh mạng thủy táng dưới lòng biển cả trên đường đi không đến.
Năm tháng trước, tôi cùng 150 đồng hương từ nhiều nước trên thế giới đã đến đây, đã chia chung nỗi đau buồn này, đã xót xa khóc vùi trên vai, trong vòng tay ôm của những bạn đồng hành dưới bầu trời viễn xứ... Tôi tưởng lòng mình đã nguôi ngoai nỗi bi ai nhưng bây giờ nhìn lại những mộ bia đổ nát, những đụn đất lè tè, những cây thánh giá chơ vơ, những bình hương lạnh lẽo, và đây đó, cả vài lóng xương ló mình trên những ngôi mộ cạn... xúc cảm lại trào dâng.
Làn khói nhang, giọt nước mát, bó hoa tươi, tiếng kinh cầu... của đoàn đã xua tan phần nào không khí tĩnh mịch u hoài của khu nghĩa trang. Quanh quẩn bên chúng tôi vẫn có sự hiện diện - vừa ân cần gần gũi để phụ giúp trong lễ tưởng niệm nhưng cũng vừa giữ đủ khoảng cách để tôn trọng những phút giây riêng tư thiêng liêng - của cô Anne Oh, ông Wong Yahao, ông Acoh Kwong... Vẫn biết một lời cám ơn là không đủ để đáp lại tình nghĩa của quý vị trong nhiều năm qua đối với những đồng bào bất hạnh của chúng tôi nhưng xin một lần nữa ghi nhận sự tri ân sâu xa từ tấm lòng chân thành của những người may mắn sống sót qua cơn bão dữ này.
Buổi tối, cuộc tiếp tân State Dinner do nhiều vị chức sắc cao cấp trong Chính phủ Tiểu bang khoản đãi tại một nhà hàng sang trọng bên hải cảng Terengganu sáng trưng tấp nập dường như vẫn chưa đủ xua đuổi hết không khí thê lương của các khu nghĩa trang. Nơi đây, theo lời ông Kwong kể lại, một chiếc ghe chết máy vật vờ trôi tấp vào cảng vào đúng giữa trưa 21.11.78, trên đó có 137 xác thuyền nhân Việt Nam đã thối rữa từ nhiều ngày qua. Chẳng ai màng đến chuyện tìm hiểu nguyên nhân hoặc thiết lập danh sách những người xấu số. Những thuyền nhân trên chiếc ghe không bảng số này được chôn vùi vội vàng như những kẻ vô thừa nhận. Có thể, vào thời gian cao điểm của làn sóng vượt biển lúc đó, người ta đã quá quen thuộc với những hình ảnh thương tâm như thế rồi chăng" Hay tình thương đã mỏi mệt trước bi kịch được coi như một biến cố lớn gây chấn động lương tâm con người của thế kỷ 20" Nhưng có ai oán trách gì những người chỉ làm công việc cuối cùng của một nguyên nhân đầu tiên không do họ gây ra... Buổi tiệc linh đình bỗng chát đắng trong miệng. Giọt nước mắt nuốt ngược lại vào lòng, ly rượu cúng vong rót xuống biển, điếu thuốc chiêu hồn mồi lên... Lạy Phật, lạy Chúa, xin thương xót và giải oan cho những linh hồn vất vưởng!
Cũng ở Terengganu, chúng tôi lần đầu tiên gặp gỡ "những người đàn bà còn ở lại" và được nghe câu chuyện đời trớ trêu của họ. Họ không phải là những người đàn bà mang số phận đau khổ vì sự hy sinh cho chồng con trong hoàn cảnh ly tan của đất nước sau năm 1975 (như trong một quyển tiểu thuyết cảm động cùng tên của nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn) nhưng cùng chia xẻ một định mệnh không kém phần nghiệt ngã. Đó là những cô gái đơn côi (không thân nhân đi cùng) trong những chuyến vượt biên khoảng 15 năm trước, đến đảo lúc các trại tỵ nạn vừa đóng cửa vào cuối thập niên 1980 và bị cưỡng bức hồi hương theo chính sách "Hành động toàn diện" của cộng đồng quốc tế nhằm chấm dứt làn sóng tỵ nạn. Trong hoàn cảnh tuyệt vọng đó, họ - những cô gái lúc ấy mới 16-18 tuổi - đã chọn phương cách riêng của mình: kết hôn với người bản xứ để được định cư tại chỗ. Bao nhiêu áng mây đã trôi qua trên đầu từ ngày lìa xa mẹ cha, làm dâu xứ lạ. Bao nhiêu đêm dài quay quắt nhớ thương về khung trời tuổi nhỏ ở quê nhà và cả những giọt nước mắt hạnh phúc khi nhìn núm ruột của mình sinh ra lớn lên trên quê chồng.
Chúng tôi gặp hai trong số những phụ nữ đó nhân dịp ghé đến Viện Bảo tàng Terengganu lớn nhất Đông Nam Á để xem các di tích thuyền nhân Việt Nam và thảo luận cùng Ban Giám đốc về dự án trùng tu đảo Bidong. Hai người đàn bà ấy, tuy mỗi người một cảnh nhưng cùng may mắn kết hôn với hai nhân viên từng làm việc cho Cao ủy Tỵ nạn LHQ ở Bidong và đang có đời sống hạnh phúc. Họ tự động tìm đến với chúng tôi khi nghe tin về một phái đoàn người Việt hải ngoại trở lại thăm đảo.
Trước khi trở lại Galang - Bidong lần này, tôi đã tìm đọc một ít về văn hóa và tôn giáo ở hai nước Nam Dương và Mã Lai để kiếm chút vốn "dằn túi đi đường". Tôi những tưởng mớ kiến thức học được theo kiểu "mì ăn liền" đó cũng tạm đủ cho hai tuần lễ hành hương nhưng khi đụng thực tế mới thấy... trớt qướt. Sự hiện diện của hai phụ nữ Việt Nam trùm khăn kín đầu trong bộ y phục Hồi giáo nghiêm trang ngồi giữa đám lố nhố chúng tôi trong buổi đón tiếp tại Bảo tàng viện Terengganu có một sức hút kỳ lạ, vừa nao nao vừa mừng rỡ, trào lên trong lòng mọi người. Tôi chưa hề lần nào cảm nhận rõ hơn cái tình đồng bào và nỗi nhớ quê dạt dào như lúc ấy...

Tôi nhẹ bước đến cạnh hai người chồng đứng ở cuối phòng cùng các đứa con và xin phép được bắt tay với những người vợ của họ. Đấy, sách vở dạy cho tôi phải hành xử đúng theo phong tục Hồi giáo như vậy. Nụ cười thân thiện của hai người đàn ông đã xóa tan sự e ngại của tôi và tuyệt vời thay, họ buông một câu trả lời bằng tiếng Việt khá rõ: "Không có chi, tự nhiên mà... Nói chuyện cho vui." Hàng rào ngôn ngữ và phong tục tức khắc đổ ập xuống cho nhịp cầu con người và quê hương nở bừng lên.
Tôi quay lại chỗ ngồi, chưa kịp chìa bàn tay ra thì đã suýt ngộp thở vì vòng ôm nồng nàn xiết chặt trong mắt lệ đầm đìa của hai cô. Họ cũng không nén được sự thôi thúc của tình cảm mãnh liệt đó và, bất kể các quan chức đang thuyết trình, đã đứng dậy từ hồi nào: "Các anh, các chị ơi, tụi em nhớ quá, tụi em mừng quá! Thây kệ, phụ nữ ở đây sống khép kín và gò bó lắm nhưng mình khác, người mình với nhau mà!"
"Người mình với nhau mà!" Chỉ một câu giản dị thế thôi mà hai cô đã chờ đợi đến 15 năm mới nói thành lời. Chỉ một câu giản dị thế thôi mà tiếng nấc rung vai, nước mắt đẫm áo. Và chỉ một câu giản dị thế thôi mà bức tường mênh mông vô hình của không gian và thời gian bỗng vỡ toang cho những tấm lòng tha hương tụ hội chan hòa như chưa từng xa cách.
Buổi tiếp đón kết thúc sớm hơn vì cuộc đoàn viên cảm động bất ngờ này nhưng mọi người đều hân hoan, tíu tít thăm hỏi hai đồng hương mới gặp. Không khí trang trọng trong phòng họp chợt biến đổi thành khung cảnh xum họp của một gia đình có người thân từ xa mới về, ai cũng muốn han hỏi một câu, cũng muốn nắm lấy tay một lần... Cô Sài Gòn - cứ gọi thế cho thân tình - tương đối còn dằn được xúc cảm vì đã vài lần có dịp về thăm cha mẹ và làm ăn khá giả ở quê chồng, nhưng cô Trà Vinh không kềm giữ được giòng lệ mừng tủi tuôn trào. Do cuộc sống chật vật, từ ngày làm dâu xứ người đến giờ cô chưa một lần gặp lại gia đình. Tuy vậy, họ có lẽ may mắn hơn một số bạn đồng cảnh khác là được sống gần nhau nên "tha hồ đóng cửa nói tiếng Việt với nhau" cho vơi nỗi cô đơn.
Từ buổi ấy, hai cô cứ quyến luyến với chúng tôi suốt mấy ngày. Họ (cùng với chồng con) dù là dân địa phương nhưng đây là lần đầu tiên mới có dịp trở lại thăm đảo Bidong sau hơn 15 năm "vào đất liền". Đêm trước khi giã từ, một nhóm chúng tôi ngồi đến khuya với họ bên bờ biển Merang, ghi lại địa chỉ liên lạc, trao gửi quà kỷ niệm và nói đủ chuyện trên trời dưới đất như để trút cạn những chất chứa trong lòng từ bao năm qua. Hai ông chồng suốt buổi vẫn lặng lẽ trông con bên cạnh, san sẻ phút giây tâm tình quý hiếm của vợ và thỉnh thoảng chen vào những mẩu chuyện hoặc vài câu tiếng Việt còn nhớ được từ thời làm việc trên đảo. Dù biết khó gặp lại trên những nẻo đời xuôi ngược nhưng ai cũng thầm hẹn - và thực sự mong đợi - quả đất xoay tròn. (Mà quả nhiên, chỉ hai ngày sau, chúng tôi lại gặp gia đình của hai cô "lội theo" lên thủ đô Kuala Lumpur vì "nhớ quá không chịu nổi").
* Bidong, những bước chân trở lại
Cuối cùng, nơi nhiều người trong đoàn mong ước được đến đã đến: trại tỵ nạn Bidong, chỉ cách bờ khoảng hơn nửa giờ tàu khách.
Bãi biển Merang trong trí nhớ của hàng trăm ngàn người tỵ nạn Việt Nam bây giờ đã thay hình đổi dạng không nhận ra được. Mà có gì lạ đâu! Thưở ấy, những làng chài cát trắng dừa xanh hiền hòa đón bước chân bỡ ngỡ của thuyền nhân - lúc cập bờ cũng như khi rời đảo - chỉ lác đác vài chục túp lều của dân địa phương. Hơn phần tư thế kỷ rồi chứ ít sao. Bây giờ, những khu resort du lịch sang trọng mọc lên dọc theo con đường liên tiểu bang ven biển ấy như những nét chấm phá mạnh mẽ trên bức tranh thời gian vẫn còn sót lại nét hoang dã của nhiều năm dài thưa dấu chân người. Cái mới và cái cũ hòa quyện vào nhau, nét văn hóa truyền thống song bước bên cạnh cuộc sống hiện đại, những mái nhà cao nhọn theo kiểu kiến trúc Ấn Mã xen lẫn các ngôi cao ốc mang đậm ảnh hưởng Tây phương, những chiếc khăn trùm kín đầu của người phụ nữ Hồi giáo Mã Lai thấp thoáng trong các chiếc xe hơi Petron nội địa màu sắc tươi vui...
Chúng tôi rời thành phố Terengganu trở về khu Merang Resort vào buổi tối, nắng đã tắt hẳn nhưng vẫn còn nhìn thấy dáng đảo Bidong mờ mờ ngoài biển. Dù đã trải qua mấy ngày đường "bầm dập" trên xe nhưng đám "quậy" trong đoàn vẫn nhất định không bỏ lỡ cơ hội để... tắm biển đêm. "Dễ gì được ngâm mình trong làn nước mát dưới ánh trăng như thế này, ông anh ơi. Biển ở Úc lạnh thấy mồ!" Nhóm trung niên "thủ cẳng" hơn, chỉ tụ tập trong căn chòi bên hồ bơi quanh ấm trà kể lại những câu chuyện vượt biên thời xưa của họ. Một số khác đi ngủ sớm để chuẩn bị cho chuyến "hành trình Biển Đông" ngày mai sau khi bị ông trưởng đoàn "hù" về chặng đường gay go sắp tới: "Ai cũng có bảo hiểm hết rồi phải không" Nhớ mang giày thể thao và cẩn thận khi vào các căn nhà longhouse đó nghen!" Tôi và anh bạn làm báo Ngụy Vũ (đài truyền hình SBTN) nổi máu nghề nghiệp đánh gục mấy lon bia để lấy "khí thế" vào trận nhưng chưa đến hiệp nhì mắt đã ríu lại. Ngoài kia, Bidong vẫn im lìm chờ đợi những bước chân trở về.
Hai chiếc tàu khách êm ả lướt sóng đưa chúng tôi ra đảo vào buổi sáng nắng đẹp. Giữa mênh mông trời biển, hai hòn đảo nhô lên (đảo Bidong lớn hơn, bên cạnh là hòn đảo nhỏ mà không biết vì đâu thuyền nhân tỵ nạn Việt Nam đặt tên là Đảo Cá Mập dù người dân địa phương quả quyết rằng trong vùng biển này chẳng có con nào cả) như hai chiếc nón úp. Cầu jetty hiện dần ra, những chiếc máy ảnh bấm tí tách lẫn trong tiếng sóng vỗ và lời reo mừng tái ngộ của một số người trong đoàn: "Kìa, tượng Ông Già Bidong, kìa đài Cánh buồm Tự do! Đó, đó... khu Cao ủy và Trường học..." Cũng có người thẫn thờ đứng lặng. Dĩ vãng xa lắc hiện về như mới hôm qua dù mái tóc đã đổi màu, hình ảnh hòn đảo một thời cưu mang họ sau chặng đường sinh tử nhòe nhoẹt trong màn sương...

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Trường trung tiểu học tư thục mang tên Thích Nhất Hạnh School of Interbeing sắp mở cửa tại vùng Escondido Nam California. Mục đích của trường là không chỉ giảng dạy kiến thức phổ thông, mà còn chú ý hướng dẫn đời sống tinh thần; để các em học sinh sau này có thể vừa thành công trong nghề nghiệp, vừa có khả năng chế tác hạnh phúc cho chính mình, cho gia đình và cho cộng đồng xã hội.
Tại văn phòng Dân Biểu Trí Tạ Địa Hạt 70 số 14361 Beach Blvd, Westminster CA 92683 vào lúc 5 giờ chiều Thứ Năm ngày 11 tháng 12 năm 2025, Dân Biểu Trí Tạ đã tổ chức buổi tiệc Mừng Giáng Sinh 2025. Tham dự buổi tiệc ngoài một số quý vị dân cử, đại diện dân cử trong các Thành Phố thuộc địa hạt 70 và vùng Orange County, một số đại diện các hội đoàn, đoàn thể, các cơ quan truyền thông và rất đông cư dân và đồng hương cự ngụ trong Địa Hạt 70.
Tại nhà hàng Diamond Seafood Palace 3 vào lúc 11 giờ trưa Chủ Nhật 14 tháng 12 năm 2025, Liên Nhóm Nhân Văn Nghệ Thuật và Tiếng Thời Gian do nhà văn Việt Hải đồng sáng lập và điều hành đã tổ chức tiệc mừng Giáng Sinh, đây là một sinh hoạt truyền thống của nhóm liên tục trong 10 năm qua cứ mỗi mùa Giáng Sinh về Liên nhóm đều tổ chức họp mặt để cùng nhau mừng Lễ Giáng Sinh đồng thời cũng là dịp để cùng nhau ôn lại những kỷ niệm vui, buồn trong một năm qua.
Tại Chánh Điện Tu Viện Đại Bi, Thành Phố Westminster, Hội Đuốc Tuệ đã tổ chức buổi hướng dẫn về đề tài: "Giáo Dục Trong Gia Đình và Giao Tiếp - Ứng Xử Chánh Niệm” do Tiến Sĩ Bạch Xuân Phẻ hướng dẫn. Một buổi chiều Chủ Nhật an lành, Tu Viện Đại Bi đón chào rất đông hành giả, phụ huynh, anh chị em Gia Đình Phật Tử, và những người quan tâm đến nghệ thuật giáo dục chánh niệm trong gia đình. Bầu không khí trang nghiêm nhưng gần gũi mở ra ngay từ khoảnh khắc bước vào chánh điện: ba pho tượng Phật vàng tỏa sáng, hoa sen hồng tươi thắm, và nụ cười hiền hòa của đại chúng khiến tâm người dự tự nhiên được lắng dịu. Tất cả tạo nên một nhân duyên tuyệt đẹp cho buổi pháp thoại “Giáo dục trong gia đình & Giao tiếp – Ứng xử Chánh niệm” do Tiến sĩ Bạch Xuân Phẻ (Tâm Thường Định) hướng dẫn.
Cựu Đại tá Vũ Văn Lộc vừa qua đời hôm 29/11/2025 tại San Jose ở tuổi 92. Ông là một cựu sĩ quan của Quân lực Việt Nam Cộng hòa với gần nửa thế kỷ hoạt động cộng đồng ở California, lâu hơn bất cứ ai mà tôi được biết. Ông Vũ Văn Lộc, cùng với các ông Hồ Quang Nhật, Lại Đức Hùng, Nguyễn Đức Lâm là thành phần nòng cốt của Liên hội Người Việt Quốc gia miền Bắc California từ cuối thập niên 1980, phối hợp tổ chức Hội Tết Fairgrounds, là sinh hoạt văn hóa truyền thống lớn nhất của miền Bắc California, mỗi năm thu hút vài vạn lượt người tham dự.
Một buổi Lễ Vinh Danh và Tri Ân các Hội Đoàn, các Tổ Chức, các Tập Thể đã góp phần xây dựng cộng đồng Việt Nam vùng Hoa Thịnh Đốn trong 50 năm qua vừa được tổ chức bởi Cộng Đồng Việt Nam vùng Washington D.C, Maryland, Virginia (CĐVN DMV) vào ngày Chủ Nhật 7/12/2025, tại hội trường của Hội Thánh Tin Lành Giám Lý Việt Mỹ, Arlington, VA.
Hội viên đủ điều kiện có thể lấy hẹn để được chụp nhũ ảnh miễn phí tại Trung Tâm Cộng Đồng Monterey Park vào ngày 16 tháng 12, hoặc Trung Tâm Cộng Đồng Westminster vào ngày 17 tháng 12, bằng cách liên lạc với phòng Dịch Vụ Hội Viên của chúng tôi. Ngoài ra, tầm soát ung thư vú cũng là một trong những dịch vụ đủ điều kiện nhận thưởng trong chương trình Phần Thưởng Khuyến Khích Chăm Sóc Phòng Ngừa của Clever Care. Do đó, hội viên tham gia các sự kiện chụp nhũ ảnh kể trên cũng sẽ được thưởng $25 vào thẻ quyền lợi linh hoạt của họ để sử dụng cho các sản phẩm và dịch vụ sức khỏe. Đến tham gia chụp nhũ ảnh tại các trung tâm cộng đồng này, hội viên cũng có thể hòa mình vào không khí ấm cúng mùa lễ với các hoạt động vui nhộn như làm thủ công, đàn hát, chụp ảnh, và thưởng thức đồ ăn uống nhẹ tại đây.
Mấy ai đã quen biết nhà văn/nhà thơ Trịnh Y Thư mà không đồng ý một điều: anh luôn hết lòng với chữ nghĩa, với văn hữu và với nghệ thuật. Vì vậy chẳng ai ngạc nhiên khi đến với chương trình ra mắt sách “Theo Dấu Thư Hương-II” chiều thứ Bảy vừa qua đúng giờ, mà Coffee Factory đã chật không còn ghế ngồi. Và buổi chiều thứ Bảy bận rộn ngoài kia như không ảnh hưởng gì đến không khí sinh hoạt bên trong, khi trên tay mỗi người đến tham dự đều thấy cầm cuốn sách mới được tác giả ký, cùng những cuộc trò chuyện rôm rả thân tình.
Tu Viện Huyền Không (Chùa A Di Đà cũ), hiện do Thầy Thích Tánh Tuệ làm Viện Chủ và Thầy Thích Tuệ Giác trụ trì, cùng Hội Từ Thiện Trái Tim Bồ Đề Đạo Tràng (Bodhgaya Heart Foundation), đã liên tục tổ chức nhiều đợt cứu trợ đồng bào miền Trung chịu nạn bão lụt. Để tiếp tục công cuộc từ thiện, một tâm thư kêu gọi được gửi đến quý đồng hương và Phật tử như sau: Như quý vị đã biết, trong những ngày qua, các cơn bão và mưa lũ nối tiếp nhau, gây thiệt hại nặng nề: nhiều người chết, mất tích, bị thương; nhà cửa, cơ sở sinh sống bị tàn phá; đời sống đồng bào miền núi phía Bắc và miền Trung bị đảo lộn, khốn đốn vì nước lũ và giông lốc.
Westminster chủ yếu là một thành phố của người di dân. Người dân tin rằng việc vinh danh một nhân vật chính trị tầm quốc gia vốn tai tiếng với những phát biểu mạnh mẽ chống lại các chính sách nhập cư sẽ gửi đi một thông điệp sai lệch về việc ai mới thực sự thuộc về nơi này. Khó hiểu hơn nữa là bốn nghị viên bỏ phiếu cho quyết định này đều là những người sanh ra ở nước ngoài, di cư từ Việt Nam tới Mỹ sau khi Sài Gòn thất thủ.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.