Nhưng theo ý kiến chúng tôi, sở dĩ Hà Nội cố tình gây trở ngại cho cuộc họp Diễn đàn “Nhân dân” này là vì chế độ CSVN vốn sợ ...nhân dân. Đề tài của Diễn đàn đã đâm nhói vào tim đen những người cầm đầu chế độ vì nước Việt Nam ngày nay không có dân chủ mà cũng không có truyền thông tự do. Những lời phát biểu trong diễn đàn này nếu được loan truyền rộng rãi sẽ làm “động ổ” và có thể sẽ xẩy ra những phản ứng không thể lường trước của dân chúng khi Hội nghị thượng đỉnh ASEM bắt đầu họp. Người dân Việt Nam ngày nay đã hiểu rõ lợi ích của truyền thông, nhất là đã thấy truyền thông khác với tuyên truyền nhồi sọ lạc hậu như thế nào. Không thể phát triển kinh tế mà không phát triển chính trị.
Một biến chuyển khác đáng chú ý hơn, ngày 10-9 vừa qua Văn Bút Quốc tế trong phiên họp khoáng đại tại Tromso, Na Uy, đã đồng thanh chấp thuận một nghị quyết lên án nhà cầm quyền Hà Nội vi phạm những nguyên tắc và tự do căn bản ghi trong bản Tuyên ngôn Nhân quyền Thế giới, kể cả quyền tự do diễn đạt tư tưởng và phát biểu ý kiến. Nghị quyết nhấn mạnh cho đến nay không thấy có chút cải thiện nào về tình trạng các nhà văn, nhà báo và trí thức bị giam cầm hoặc ngược đãi ở Việt Nam và tỏ ý quan tâm sâu sắc về tình hình sức khỏe giảm sút tệ hại của nhiều tù nhân, nhất là những người đã lớn tuổi. Bản nghị quyết đã nhắc lại tháng 2-2003, Văn Bút quốc tế đã mở cuộc vận động toàn cầu soi xét để cảnh báo công luận về sự tăng cường đàn áp quyền tự do phát biểu ở Việt Nam.
Trong bản nghị quyết mới, Văn Bút Quốc tế đòi hỏi nhà cầm quyền Hà Nội phóng thích ngay tức khắc và vô điều kiện tất cả các nhà văn, nhà báo và trí thức còn bị giam cầm hoặc quản chế chỉ vì đã hành xử ôn hòa quyền tự do diễn đạt tư tưởng và phát biểu ý kiến của họ. Trong số các tù nhân đó có các ông Nguyễn Đình Huy và Trần Văn Lương, linh mục Nguyễn Văn Lý, nhị vị Hòa thượng Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ, các ông Nguyễn Khắc Toàn, Phạm Hồng Sơn, Nguyễn Vũ Bình, Nguyễn Đan Quế, Thượng tọa Thích Tuệ Sỹ và ông Nguyễn Xuân Tụ. Văn Bút Quốc tế cũng đòi chế độ Hà Nội phải chấm dứt tất cả những biện pháp sách nhiễu, hăm he, dọa nạt đối với thân nhân của họ, bảo đảm cho tù nhân quyền được gia đình thăm nom, chăm sóc và cung cấp thuốc men đầy đủ khi đau ốm, và trong trường hợp khẩn cấp, quyền được điều trị tại một viện y khoa trong khi chờ đợi được phóng thích.
Cuộc tranh đấu rất thành công trong khung cảnh Văn Bút quốc tế chỉ là một phần trong toàn bộ mặt trận rất đa dạng của các cộng đồng người Việt hải ngoại diễn ra liên tục trong bao năm qua nhằm chống lại chế độ Cộng sản lỗi thời để xây dựng một nước Việt Nam tự do, dân chủ, tôn trọng nhân quyền trong đó có quyền tự do tôn giáo và tự do ngôn luận. Hai tuần trước, nhân dịp Đại hội thường niên của Hàn Lâm Viện Khoa Học Nữu Ước, buổi lễ long trọng trao Giải thưởng Nhân quyền Heinz R. Pagels cho Bác sĩ Nguyễn Đan Quế đã diễn ra tại đại sảnh đường Hàn Lâm Viện với hình BS Quế được phóng to đặt trước Hội trường có khoảng 150 vị Hàn lâm hiện diện. Tuần qua Tổ chức Phóng Viên Không Biên giới đã lên tiếng yêu cầu Liên hiệp Âu châu tích cực can thiệp cho BS Phạm Hồng Sơn được trả lại tự do. BS Phạm Hồng Sơn, 34 tuổi, đã bị Công an CSVN bắt giữ hồi tháng 3 năm 2002 chỉ vì đã dịch một tài liệu từ website của bộ Ngoại giao Mỹ, tựa đề “Thế nào là Dân chủ”.
Bản nghị quyết của Văn Bút Quốc tế cận ngày họp của ASEM ở Hà Nội đã vô hình chung làm nổi bật một bản chất của chế độ Cộng sản cũng như của mọi chế độ độc tài đảng trị, đó là sự sợ hãi tự do ngôn luận. Chế độ Cộng sản Liên Sô dưới thời Stalin là những người đầu tiên đi theo phương pháp tuyên truyền nhồi sọ của Đức Quốc xã. Họ đã thấy sợ vì nó quá mạnh trong chiến tranh, nên cũng rập khuôn bắt chước luôn, coi như lấy độc trị độc. Ở Việt Nam, khi phong trào Việt Minh mới thành hình, những người Cộng sản hơn ai hết đã hiểu rõ sức mạnh của tuyên truyền. Bằng cớ là từ đội “Võ trang Tuyên truyền” buổi sơ khai đầu thập niên 40, họ đã tổ chức được Giải phóng quân, tiền thân Quân đội Nhân dân. Tại sao đi tuyên truyền lại phải có võ trang" Đó là vừa thủ lại vừa công, cần tự vệ và cũng cần tiêu diệt những kẻ thù chống lại đường lối tuyên truyền của họ.
Bất luận như thế nào, những người Cộng sản đã mang một căn bệnh di truyền thâm căn cố đế là tin rằng tuyên truyền đem lại sức mạnh, tuyên truyền là súng, tuyên truyền là bom. Trong thời chiến, họ đã tuyên truyền “vì độc lập tổ quốc” thay cho “vì chủ nghĩa cộng sản” nên họ đã thành công. Sau năm 1975, họ bắt nhốt cả đống văn nghệ sĩ miền Nam, họ nói một cách đầy tin tưởng như sách giáo điều: “Mỗi ngòi bút là một sư đoàn tâm lý chiến”. Nhưng đến thời đại mở cửa và sự giao tiếp với bên ngoài ngày càng mở rộng, tình thế lại khác. Chế độ CSVN ngày nay sợ nhân dân thấm nhuần được những tư tưởng phóng khoáng về tự do dân chủ. Nếu họ sợ dân, đó là bằng chứng không thể chối cãi họ đã không tin ở nhân dân của họ. Và khi đã sợ dân, đó là một điềm gở: chế độ sẽ chết yểu.