Adam Smith, ông thánh thuộc loại bậc thầy về thị trường tự do, đã phân tích cho nhìn thấy rõ việc bất bình đẳng , ông viết "Người hầu, dân lao động và công nhân tất cả đủ loại đang đóng góp nhiều hơn cho mỗi xã hội chính trị," và ông cho biết thêm, " cái gì cải tiến các tình trạng đóng góp nhiều hơn này có thể không bao giờ được coi như là một việc bất tiện đối với toàn thể."
Ngày nay các nhà kinh tế hàng đầu cho chúng ta biết rằng các đồng lương chính thực phải cắt đi để cạnh tranh với những đồng lương của ai đó còn thấp hơn. Các nhà kinh tế cho biết, luật về đồng lương tối thiểu và nghiệp đoàn làm cho công việc làm ăn mất đi. Các nhà kinh tế cho biết quốc gia của tôi, tức Hoa kỳ, là một mô hình mẫu cho thị trường lao động có sự uyển chuyển để có sự toàn dụng công nhân bằng cách chấp nhận sự nghèo nàn. Các nhà kinh tế giảng rằng trật tự toàn cầu cho việc tư hữu hóa, cho việc phá lệ, cho mậu dịch tự do và cho các thị trường chính được cởi mở - như là sự nhất trí của Washington - nó sẽ tạo ra những cái lợi lớn mới cho tất cả dân số trên toàn thế giới.
Tại Âu châu, đã từng giữ cái khôn ngoan đương thời như là một di chứng cho xã hội chủ nghĩa, cho dân chủ xã hội và cho hệ thống phúc lợi. Song nếu các ngài xem kỹ các quốc gia Âu châu, các ngài mới thấy rõ rằng những quốc gia theo các truyền thống mạnh nhất về bình đẳng con người (tựa như Na Uy và Đan Mạch) có sự thất nghiệp thấp nhất. Còn những quốc gia đã bỏ chủ nghĩa phát xít lại đằng sau (như Tây Ban Nha) và nhận sự trợ giúp của Liên Bang sô viết gần đây sự thất nghiệp tại các nước này lại cao nhất (trên 20%).
Không có trường hợp nào chung, tại Âu châu hay nơi nào khác, các quốc gia đạt được sự duy trì thịnh vượng là nhờ cắt giảm đồng lương chính thực hay chấp nhận thêm sự nghèo nàn cho phần nào đó của dân số. Mặc dầu có những cố gắng lớn, các nhà kinh tế đã không chứng tỏ được luật về đồng lương tối thiểu hay các nghiệp đoàn đang làm mất đi các công ăn việc làm.
Còn Hoa kỳ, một quốc gia có tiền hưu nhiều, việc ghi tên học trường công tới 90%, y tế công cũng như tư rộng lớn với các khu trường đại học, nhiều việc làm táo bạo của thành phố và luật lệ vươn xa, tại nơi đây đồng lương tối thiểu đã tăng lên và được trả không đồng đều, nạn ngheò đói và nạn thất nghiệp tất cả đã đi xuống vào cuối năm 1990, Hoa kỳ không có một mô hình mẫu nào gọi là sự nhất trí của Washington.
Người tiên phong vĩ đại trong các cuộc nghiên cứu về phát triển là Simon Kuznets, ông đã lý luận từ lâu việc công nghiệp hóa được tiến triển, thành thị và giai cấp trung lưu thường đá đổ nền kinh tế bất quân bình như đã xẩy ra từ giữa thế kỷ thứ 19 cho suốt tới giữa thế kỷ thứ 20. Nhưng ngày nay các nhà chuyên về phát triển kinh tế hầu như đã bỏ Kuznets sang một bên để theo những quan điểm nói rõ các hưũ hiệu đã được đề ra theo tiến trình của thị trường.
Một quan điểm theo khuynh hướng này là việc làm tiên khởi để có sự đồng đều về cơ hội, đặc biệt về giáo dục và sở hữu đất đai. Nhưng khi lý luận tiếp tục đi xa, thị trường phải cho phép để đồng lương trả cho công nhân được minh định nếu kết quả cuối cùng vẫn còn không đồng đều. Theo quan điểm khác, những sự không đồng đều chính nó tự hỗ trợ lấy, có lẽ bởi vì tiết kiệm cần phải có sự tích lũy, sự tích lũy là cái gì đó chỉ đại diện cho sự làm giầu.
Phải chăng các nhà kinh tế hiện nay không hiểu tất cả chuyện này " Khốn thay hầu hết các nhà kinh tế đã dùng các phương thức này để đo về sự không đồng đều, theo như Ngân hàng Thế giới đã cho đăng lên hồi năm 1996 đã làm cho các vấn đề này bị lần lộn. Con số đưa ra thường không thuyết phục nổi, cho thấy Nam Dương có sự đồng đều hơn là Úc Đại Lợi vào ngay lúc đó, phạm vi bao hàm đã bị giới hạn, các ngài không có thể đo các sự phát triển này suốt thời gian. Các ngài cũng còn kỳ lạkhông có thể nói chắc chắn, theo các cách đo này, sự không đồng đều trên thế giới đã tăng lên trong 20 năm qua.Nhưng có bất cứ ai đang thiệt sự nghi ngờ chuyện này không chứ "
Để lấp khoảng cách, một nhóm nhỏ mệnh danh là công trình nghiên cứu không đồng đều của đại học Texas hiện nay, công trình đưa ra theo hệ thống đo lường hầu như hàng năm về đồng lương đựơc trả trong công nghiệp cho trên 150 quốc gia, đo ngược lại cho tới đầu năm 1960. Đồng lương được tập trung cho hẹp lại để đo được chính xác và kiên định suốt trong thời gian này - chúng tôi có thể cho thấy ánh sáng mới về mối tương quan quan trọng giữa sự không đồng đều về kinh tế và sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Lần thứ nhất, chúng tôi đã tìm ra sự không đồng đều trên toàn thế giới đã đột tăng theo việc toàn cầu hóa. Trong khi đó sự gia tăng đã không bắt đầu tại Hoa kỳ, vào khoảng năm 1970, sự gia tăng này có hiện sâu sắc hơn vào những năm sau này tại Mỹ Châu La Tinh, tại Trung Âu, tại Trung quốc và nhất là Nga. Trong các quốc gia của tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế 'OECD' (Organization for Economic Cooperation and Development), Tây Tây Lan đã từng có kinh nghiệm các sự gia tăng lớn nhất này, Úc có ít theo một số nào đó. Trong một số ít quốc gia, nhất là Scandinavia, đồng luơng không đồng đều không tăng lên nhiều hay hầu như không tăng.
Lần thứ hai, đo theo các thời kỳ rộng lớn thì Kuznets coi như đúng: sự không đồng đều có giảm đi khi tổng số lợi tức tăng lên; sự không đồng đều cao thường thấy tại các quốc gia nghèo hơn là quốc gia giầu có. Phần của vấn đề trong nền kinh tế thế giới bị chậm lại đối với sự tăng trưởng trung bình; sự đình trệ sắp tới của thế giới sẽ chắc chắn hầu như làm cho đồng lương trả không đồng đều còn xấu đi . (Các cách đo của chúng tôi không dựa vào bất cứ biến đổi nào theo lối nhìn cận đại.)
Lần thứ ba, khuynh huớng toàn cầu về không đồng đều đượcï ổn định năm 1960, hơi đi xuống năm 1970 và vọt lên sau năm 1981 và kế đó. Lấy cái gì để tin chuyện này " Kỹ thuật " Mậu dịch " Chúng tôi không nghĩ như thế. Chúng tôi bấm chính theo thời gian vào lúc chế độ tài chánh hầu như có sự bạo hành cho thay đổi vào đầu năm 1980: lãi xuất tăng lên thực sự, có những sự khủng hoảng của nợ nần và sự khải hoàn của nền tài chánh tư trên toàn cầu. Có rất nhiều cách đo, mẫu đo giống như những gì chúng tôi tìm thấy riêng cho từng quốc gia (như Chili), tiếp theo là một cuộc đảo chính.
Còn tuỳ thuộc vào chính sách. Trên hết, chúng tôi suy ngẫm sự kiện này rõ ràng là trật tự tài chánh của 28 năm qua không có thể đưa ra để có duy trì đuợc sự phát triển kinh tế toàn thế giới. Vì vậy cần phải gây dựng lại một cấu trúc kiểm soát và giữ ổn định được tài chánh tương tự theo như hệ thống Bretton Woods của qũy tiền tệ quốc tế, nhưng phải thích hợp hơn nữa đối với thế giới đa cực.
Việc này là mục tiêu khó đạt, chắc chắn như thế. Nhưng đối với chúng tôi, thay hế vào đó sẽ có sự gia tăng về sự bất ổn chính trị và nỗi khốn khó cho con người, vì mục tiêu khó đạt, các quốc gia giầu có sẽ không còn được ngoại trừ.
CHÚ THÍCH : James K. galbraith là một giáo sư tại trường đại học Texas tại Austin, nhà biên soạn chung về Việc Không Đồng Đều và Sự Thay Đổi Công Ngiệp : Một quan điểm tòan cầu (nhà xuất bản Cambridge, 2001) và giám đốc của Công trình Nghiên cứu Bất đồng đều của đại học Texas. Giaó sư hiện nay ở Sydney như một người khách của Viện Whitlam Instiute.