Đó là Paolo. Người ca sĩ hát nhạc Rock đầu tiên của nhạc trẻ Việt Nam — mà thời bấy giờ của thập niên 60, các khán giả trẻ quen nhìn anh với bộ đồ da màu đen, cổ đeo đồng đôla với sợi dây chuyền to xích bạc giống như ca sĩ Vince Taylor của Anh quốc. Được biết Paolo đã cộng tác với ban nhạc The Black Caps, anh thường trực hát ở phòng trà Anh Vũ vào năm 1962. Sau đó, anh cũng hát với ban nhạc The Teddy Bears, The Vibrations và The Top Five. Một số phòng trà mời anh cộng tác như Ma Cabane (đường Trương Công Định) và Au Baccara (Trần Quý Cáp — Lê Văn Duyệt), rồi downtown Saigon hát ở Nuit D’Orient, La Sirène, Tự Do, Au Chalet.
Anh cũng đã từng đóng phim trong “Saigon By Night” với đạo diễn Thái Thúc Nha (1964) và một phim ngắn “Người cầm súng” của đạo diễn Nguyễn Ngọc Liên. Trong đó, anh đóng vai chính là một sinh viên trước thời cuộc và ngưỡng cửa chiến tranh.
Chiến tranh Việt Nam trong lúc cao điểm, anh đã lên đường nhập ngũ trong binh chủng Biệt Động Quân.
Xuất thân từ trường Pháp, hồi nhỏ học tại Albert Sarraut (Hà Nội), lớn lên học tại Jean Jacques Rousseau (Saigon). Anh tên thật là Đào Thiệu Doãn, sinh tại Hà Nội năm 1946 (Bính Tuất). Khi đi hát trong ban nhạc The Black Caps, anh có tên là Thanh Tuấn. Ở trường học anh tên là Paul. Sau này, anh lấy tên Ý là Paolo (từ chữ Paul ra). Một chi tiết mà anh thổ lộ cùng tôi là thời Đệ Nhất Cộng Hòa, chế độ Ngô Đình Diệm đã cấm anh hát và anh bị bắt nghỉ học tại trường Jean Jacques Rousseau (trường Jean Jacques Rousseau lúc bấy giờ có Ngô Đình Trác, con ông bà Ngô Đình Nhu học dưới anh mấy lớp). Anh bị cho nghỉ học mà không biết tại sao. Sau này, anh có người bạn thân là con một ông tướng cho biết là vì nhạc Rock loạn quá và chế độ muốn bảo vệ thuần phong mỹ tục. Xem thế thì đủ biết hiện tượng của nhạc Rock thời ấy của nhạc trẻ VN đã ảnh hưởng cuốn hút thanh niên, thiếu nữ như thế nào (1962) — lúc này, anh đang học Première (tương đương Tú Tài I). Sau đó, anh qua học Chu Văn An năm cuối và theo học Architect ở Đại Học Kiến Trúc Saigon — sau 75 di tản — anh hát ở Los Angeles một thời gian, rồi qua Texas và Virginia hát trong ban nhạc Rhapsody trong một club Mỹ. Một ông bầu Mỹ định đưa anh đi hát ở Casino trên Las Vegas, Atlantic City, Reno. Nhưng cuối cùng, ông bầu Mỹ này bị bệnh cancer nên phải từ bỏ ban nhạc.
Trở về California anh hát cho vũ trường Tự Do. Sau đó, đi qua Pháp hát ở Paris, rồi về San Jose cộng tác với ban nhạc Phượng Hoàng (Lê Huy) một thời gian rồi nghỉ hát để làm business ở Bay Area (San Francisco — Berkeley). Cassette đầu tiên của Paolo tại hải ngoại là “Yêu một ngày, nhớ một đời” (1984). Tái xuất hiện sau 15 năm vắng bóng của anh là vì lòng yêu mến nghệ thuật — nhớ nhạc và nhớ thính giả — được các bạn chung quanh khuyến khích, anh cho biết anh trở về với thế giới nghệ thuật ca hát vì có người cho là ca sĩ hải ngoại hát không hay bằng trong nước. Anh tâm sự: chúng ta đang ở một nước tân tiến nhất thế giới, phải học hỏi để tiến lên. Không thể đi ngược lại trào lưu của văn minh tiến bộ Tây phương. Về kỹ thuật hát, anh đã luyện theo phương pháp và kỹ thuật hát Opera — khi hát, ca sĩ không được hát giọng mũi, hoặc giọng cổ. Tiếng hát đi ra từ 1 phần lên mũi, còn 9 phần đi qua Palate (hốc hàm răng trên). Cổ họng phải mở tròn ra (open throat) — nếu hát mà sợ xấu thì không thể hát hay được — vì cổ họng không mở ra thì tiếng hát không thoát và vang được.
Hỏi về cuộc sống riêng tư và nhờ lý do nào anh vẫn trẻ, vẫn phong độ như xưa. Anh cho biết anh sống lơ lửng giữa không gian và thời gian, đầy màu sắc chung quanh — đọc sách, coi phim, nghe nhạc giá trị — anh theo đạo Thiên Chúa nhưng tin vào “Luật Nhân Quả” của nhà Phật và Học Thuyết Trung Dung.
Người đàn bà lý tưởng của anh là người đàn bà đừng bao giờ đóng vai một người mẹ mà hãy là tình nhân, người em gái hoặc người vợ (D’ont tell me what to do). Tôi hỏi anh sao đã có rất nhiều người đàn bà trong cuộc đời, mà tình yêu chưa trọn vẹn" Anh lưỡng lự gật gù: Vì họ đã từ chối làm người tình nhân, em gái và vợ. Họ chỉ thích ngôi vị một bà mẹ. Anh thích cuộc sống giản dị, hạnh phúc và có ý nghĩa, có màu sắc, có tình người, tình bạn bè. Anh không cần giàu sang và thích phụng sự nghệ thuật, yêu mến khán giả. Thích thiên nhiên, súc vật. Ước mong của anh là có nhiều nghệ sĩ Việt Nam được nổi tiếng với cộng đồng thế giới.
Paolo và tôi, người viết bài này cũng là đôi bạn thân của những năm tháng Saigon mộng mơ yêu dấu cũ. Trong đó, tiếng hát của Paolo, một Tom Jones Việt Nam — khi nhớ lại. Một thuở... Một đời.
Để mượn lời một nữ khán giả Đêm Ra Mắt CD của Paolo “Now and Then” tại vũ trường Majestic 23/2/01. Thay cho lời kết của bài này. Vị nữ khán giả đó nói với Paolo: “Anh hát thế này làm sao đêm nay em ngủ được!”.
Calif. Cuối Đông 2001