Hiện có khoảng từ 3% đến 7% nam và nữ tại Úc quyết định sẽ không bao giờ sinh con. Trong đó chỉ có khoảng 20% là những người thực sự ghét trẻ con.Viện nghiên cứu gia đình của Úc đã tiến hành hai cuộc nghiên cứu cách nhau 15 năm để xem thử lý do vì sao các cặp vợ chồng mới cưới không muốn sinh con. Những kết quả trong hai năm 1981 và 1996 cho thấy những lý do như sau: Trẻ con làm thay đổi lối sống yêu thích của họ, làm họ mất tự do và quá tốn kém.
Chỉ có một số nhỏ trong cộng đồng không muốn sinh con là chuyện bình thường. Tuy nhiên nếu kết hợp vấn đề đó với khuynh hướng sinh ít con và số người già tại Úc đang tăng lên, thì quả thật nước Úc đang đối phó với tình trạng thiếu trẻ con nghiêm trọng trong tương lai. Trong một thời gian rất gần nữa, nước Úc sẽ gánh chịu những áp lực rất lớn về mặt xã hội và kinh tế do tỷ lệ sinh đẻ của quốc gia quá thấp và ngày càng trụt giảm.
Tỷ lệ sinh nở hiện tại của Úc chỉ chừng 1.75% và không đủ để thay thế cho số người về hưu hay chết. Nước Úc cần có tỷ lệ sinh nở vào khoảng 2.1% để bảo đảm có đủ sức lao động cần thiết cho nhu cầu phát triển quốc gia trong tương lai. Chính phủ John Howard với chính sách thiển cận là siết chặt luật di dân đã phát hiện ra sự sai lầm của mình và trong tháng trước đã tuyên bố nhận thêm 6000 di dân cộng thêm vào con số có sẳn. Như vậy trong vòng năm năm sắp đến nước Úc sẽ nhận thêm 75 ngàn di dân.
Trong khi chống chế về việc hạn chế di dân, tổng trưởng Philip Ruddock thừa nhận rằng nước Úc sẽ đối phó với thảm họa xã hội và kinh tế nếu không có đủ sức lao động trong tương lai. Đầu thế kỷ 20 phát triển sức lao động của Úc là vào khoảng 2.1% trong khi hiện nay lao động phát triển chỉ ở mức 1.6%. Với khuynh hướng hiện nay mức phát triển lao động tại Úc chỉ còn khoảng 0.4% vào năm 2015.
Bộ di trú không phải là nơi duy nhất cảnh cáo về nguy cơ thiếu sức lao động của Úc trong tương lai. Văn phòng của bộ trưởng dịch vụ cộng đồng và gia đình Amanda Vanstone cũng tiến hành một cuộc nghiên cứu riêng, và khuyến cáo chính phủ nên tặng tiền cho phụ nữ sinh con để khuyến khích phụ nữ Úc chịu khó "đẻ". Tỷ lệ sinh sản của người Úc tăng và giảm tùy thuộc vào mức phát triển của nền kinh tế. Sau thế chiến lần thứ hai những đợt nhận di dân khổng lồ đã làm cho việc giảm tỷ lệ sinh nở của người Úc không thấy rõ. Nhưng khi mức nhận di dân giảm đi, thì tỷ lệ sinh nở thấp lại hiện ra và đe dọa tương lai của nước Úc.
Sau đợt khủng hoảng kinh tế năm 1991, chính phủ Lao động giảm con số di dân và chính phủ liên đang sau đó lại càng giảm mạnh số di dân vào Úc hơn nữa. Tuy nhiên việc tăng mạnh số di dân vào Úc cũng tạo ra cho nước Úc những vấn nạn khác. Với số dân quá ít ỏi, việc nhận một số lớn di dân trong một thời gian ngắn có thể tạo ra tình trạng một nước Úc bị phân hóa nghiêm trọng. Về mặt chính trị, các chuyên gia dân số của Úc cho rằng các chính phủ Úc không nên liều lĩnh nhận một số lượng di dân lớn trong một thời gian quá ngắn.
Có hai giải pháp mà chính phủ Úc có thể làm được là khuyến khích phụ nữ Úc sinh con bằng các chính sách khích lệ hợp lý. Tại Pháp và Na Uy chính phủ khuyến khích sinh đẻ bằng cách cung cấp dịch vụ mẫu giáo miễn phí cho trẻ con, và chăm sóc trẻ miễn phí sau giờ học cũng được chính phủ cung cấp. Chính phủ Pháp còn trợ cấp thêm cho các gia đình đông con và giảm thuế cho các gia đình này. Tỷ lệ sinh sản của Pháp là 1.9 và của Na Uy là 1.85.
Các nghiên cứu của Úc nhận thấy rằng phụ nữ Úc ngày càng cảm thấy khó khăn trong việc vừa đi làm kiếm tiền vừa phải sinh con và chăm sóc cho gia đình. Không những chi phí nuôi con ngày càng tốn kém mà mỗi đứa con được sinh ra làm cho người mẹ thất thu 400 ngàn đô la trong toàn bộ quá trình nuôi nấng đứa con.
Trong khi đó thiếu các dịch vụ trợ giúp cho phụ nữ sinh con cũng là một yếu tố quan trọng khiến phụ nữ Úc ngày càng tỏ ra e ngại trước việc quyết định sinh con. Những thanh niên thiếu nữ mới lớn lên ngao ngán chứng kiến cảnh bố mẹ chật vật nuôi dạy con cái,vì thế không dám tưởng gì đến việc sinh con đẻ cái nữa. Thêm vào đó cuộc sống hiện đại có mức cạnh tranh kinh khủng khiến thanh niên nam nữ nhận thấy rằng nếu sinh con họ sẽ không đủ thời giờ và sức lực để làm việc cho đến lúc đạt được tham vọng của mình. Hơn nữa nếu muốn con mình thành công, thì phải tiêu tốn nhiều hơn mới mong rằng con cái có thể so tài ngang ngữa với con cái của các gia đình giàu có khác.
Xã hội càng ngày càng bị vật chất hóa và thiếu thốn tình cảm, đặt biệt là đối với những trường hợp sau khi ly dị, bố hay mẹ một mình nuôi con, khiến cho thanh niên thiếu nữ chẳng muốn con của mình sinh ra trong một xã hội như vậy. Theo những con số điều tra thì có đến 90% các bà mẹ tin rằng chức năng làm mẹ là một chức năng thực ra rất cao quý nhưng lại bị xã hội đánh giá thấp.
Kết quả một cuộc điều tra trên 1200 bà mẹ vào tháng tư vừa qua cho thấy một trong số 10 bà mẹ cho rằng cái lợi và niềm vui của việc sinh con không bù lại được cái phức tạp, khó khăn và thua thiệt do việc sinh con mang lại. Một trong những mối quan tâm chính đối với các bà mẹ là sự thiếu quan tâm của chính phủ,của xã hội. Một phần ba các bà mẹ ở nhà nuôi con đã mất sự tự tin khi cố gắng tìm cách kiếm một việc làm khi con đã lớn. Một phần ba khác tin rằng sinh con coi như hy sinh sự nghiệp riêng của mình.
Những chuyên gia dân số tại Úc tin rằng cần có những chính sách hợp lý, chính phủ mới có thể hy vọng khuyến khích sự gia tăng dân số trong thời gian đến. Hiện nay có rất ít sự giúp đỡ của chính phủ đối với những bà mẹ sau khi nuôi con lớn muốn quay lại làm việc. Thậm chí việc nghỉ hộ sinh có lương cũng không được áp dụng và sau khi nghĩ sinh quay lại làm việc cũng gặp nhiều khó khăn do các công ty hãng xưởng thường rất khó chịu đối với những công nhân hay nữ nhân viên có bầu và xin nghỉ hộ sản.
Việt Đăng