GÓC NHẠC CỔ ĐIỂN
Chúng tôi mong nhận được mọi ý kiến đóng góp và bài vở của bạn đọc về mọi vấn đề liên quan đến nhạc cổ điển như ca kịch opéra, ballet, kỹ thuật (recording), album mới, concert bạn mới đi nghe...Thư từ bài vở xin gởi về
Một trong những ngộ nhận lớn nhất trong nhạc cổ điển là tên gọi Moonlight Sonata cho bài Piano Sonata No. 14 in C-sharp minor của Beethoven.
Nhạc Chương Trình
- Jo Ký - Tháng 10, 2006.
Khoảng đầu thập niên 1980, ở Việt Nam (VN) lúc đó có chương trình phát thanh nhạc cổ điển trên đài Sài Gòn (SG). Chương trình chỉ có một tiếng đồng hồ mỗi ngày, từ 9:00 đến 10:00 giờ sáng. Chương trình có khi là nhạc guitar, thính phòng, hoặc nhạc giao hưởng. Đôi lúc họ lại đặc biệt phân tích, dẫn giải một tác phẩm nào đó. Cụ thể trong năm 1980-1981, những tác phẩm họ chọn để phân tích gồm có Moonlight Sonate của Beethoven, Scheherazade của Rimsky-Korsakov, Swan Lake của Tchaikovsky, và giao hưởng thứ 7 của Shostakovich. Thật là chỉ có vậy và họ lập đi lập lại chương trình rất nhiều lần.
Khi phân tích một bản nhạc, thái độ chung của họ là hay gán ghép một hình ảnh cụ thể cho một chủ đề. Thí dụ như trong Moonlight Sonata, họ nói rằng bè cao tượng trưng cho những sóng nước trên mặt hồ mà mái dầm, tượng trưng bằng bè trầm, đã khuấy động. Swan Lake thì họ nói sát theo vở ballet. Giao hưởng thứ 7 thì họ lại cũng bàn theo khối Soviet, cho là đoạn diễn hành kỳ cục ở chương một có ý mô tả đoàn quân Đức Quốc Xã đang dần tiến đến Leningrad. Họ còn bàn thêm một đoạn đầu chương hai, lúc double bass và piccolo tấu chung với nhau. Họ cho là tiếng bass tượng trưng cho ngục tù đen tối và tiếng piccolo tượng trưng cho tự do và hy vọng. Bất cứ ai mà đã nghe qua những chương trình này đều cho rằng nhạc cổ điển đều phải là như thế, đều phải có tư tưởng điển hình tàng ẩn phía sau. Những giòng nhạc phải tượng trưng cho một cái gì đó, phải nói lên cái gì đó.
Khi ra nước ngoài, ta mới nhận ra rằng: có những tác phẩm tượng hình cụ thể thật, nhưng đại đa số tác phẩm không có như vậy và hoặc giả, chỉ là rất mông lung. Những sự phân tích như ở VN chỉ có ở những tác phẩm viết theo lối nhạc chương trình (program music), và số lượng tác phàm này rất nhỏ. Thí dụ như 1812 Overture của Tchaikovksky, The Four Seasons của Vivaldi, Pictures at an Exhibition của Mousorsgsky, giao hưởng thứ 3, 6 của Beethoven, các thơ giao hưởng của Richard Strauss. Các opera, ballet đương nhiên có thể được xếp vào loại này. Nhưng rất rất nhiều những tác phẩm khác thì không phải là nhạc trình, và người nghe nên phân biệt cho rõ ràng. Ngoại trừ những bản nhạc mà chính tác giả có đặt tên thật rõ ràng, những tác phẩm khác không phải nhạc chương trình. Thường thì những tác phẩm thuộc loại thứ nhì, nhạc sĩ chỉ đặt tên bằng các tempo, thể loại đôi khi kèm theo cung bậc. Thí dư như các prelude, valse, polonaise, mazurka của Chopin; các sonata của Beethoven; các giao hưởng, v.v.. Không ai hiểu piano concerto thứ 4 cho piano của Beethoven tả cái gì cả. Nhạc của Mozart dường như không bao giờ là nhạc chương trình.
Nhưng vấn đề là ở công luận và người nghe. Người ta thích gán ghép những cái tên cũng như hình và hàm ý cho những tác phẩm một cách oan uổng. Hình như cái thói này bắt đầu từ thời Haydn. Lúc đó bên Anh Quốc, các vương gia, quý tộc đặt tên cho các giao hưởng cuối của Haydn. Thí dụ như giao hưởng thứ 94 được đặt là "Surprise", 96 là "Miracle", 100 là "Military", 101 là "The Clock". Một trong những ngộ nhận lớn nhất trong âm nhạc là cái mà người ta hay gọi là Moonlight Sonata của Beethoven. Xin thông báo lần cuối cùng: Moonlight Sonata không phải, và xin lập lại một lần nữa, không phải nói về ánh trăng. Beethoven không có đặt tên này, và cũng không có ý định gì mô tả ánh trăng cả. Tên nguyên thủy của tác phẩm này là Piano Sonata No. 14 in C-sharp minor "Quasi una fantasia", Op. 27, No. 2. Những chữ Quasi una fantasia là do chính Beethoven thêm vào. Quasi có nghĩa là tương tự. Una fantasia nghĩa là một fantasia. Ông viết tác phẩm này năm 1801 và đề tặng cho cô học trò 17 tuổi xinh đẹp mà ông đã thầm yêu, đó là quận chúa (Countess) Giulietta Guicciardi. Cái tên "Moonlight" xuất hiện 5 năm sau khi Beethoven mất, do nhà thơ người Đức tên Ludwig Rellstab đã đem chương thứ nhất của sonata này so sánh với ánh trăng phản chiếu trên mặt hồ Lucerne tại Đức, và từ đó nó mang chết cái tên này. Một tác phẩm khác của Beethoven cũng hay bị ngộ nhận là giao hưởng thứ 5. Cái tên giao hưởng "Định Mệnh" là do Anton Schindler, một người thư ký của Beethoven, đề nghị qua vài dữ kiện mơ hồ mà Schindler tuyên bố rằng là đã gom góp từ những giấy tờ của Beethoven. Nhưng Schindler lại là người có tiếng là hay giả mạo các văn từ, nên những dữ kiện ông ta đưa ra hay bị nghi ngờ. Mặc dù vậy, thiên hạ vẫn khư khư giữ lấy cái ý tưởng định mệnh đó. Người ta cho rằng 4 note đầu tiên của chương một (ngắn-ngắn-ngắn-dài) là tượng trưng cho tiếng gõ cửa của tử thần. Thì khi gõ cửa người ta cũng hay gõ 4 tiếng nên họ chấp nhận một cách dễ dàng ý tưởng này. Phàm thì con người thích những gì mang tính lãng mạn, bi kịch; chứ thật ra thì trên đời này thiếu gì những hành động tạo ra 4 tiếng như vậy, tiếng búa đập lên đe của thợ rèn chẳng hạn.
Nhạc cổ điển là một nghệ thuật trừu tượng. Nó đòi hỏi rất nhiều ở người thưởng thức, có lẽ nhiều hơn bất cứ nghệ thuật nào khác. Khi nghe nhạc, người nghe nên cởi mở tâm trí để sẵn sàng đón nhận, tận hưởng tất cả những gì đã, đang, và sắp xảy ra trước mặt. Đừng bao giờ chống cự, đào thải, hay có thành kiến với bất cứ một tư tưởng nào. Hãy để cho âm nhạc mơn trớn, thao nắn tâm lý mình, và như thế nó mới nẩy nở, trưởng thành một cách toàn thiện, toàn mỹ. - Jo Ký - Tháng 10, 2006.